Phù – Rối loạn tim mạch – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Xem lại / Duyệt lại hàng loạt lần cuối Thg6 2018 | Sửa đổi nội dung lần ở đầu cuối Thg6 2018Nguồn chủ đề

Phù là tình trạng sưng nề các mô mềm do thoát dịch vào khoảng kẽ. Dịch chủ yếu là nước, nhưng cũng có thể có sự tích tụ protein và chất lỏng giàu chất protein nếu có nhiễm trùng hoặc tắc nghẽn bạch huyết.

Phù hoàn toàn có thể Open ở body toàn thân hoặc cục bộ ( số lượng giới hạn ở một chi hoặc một phần chi ). Đôi khi, triệu chứng này Open bất ngờ đột ngột, bệnh nhân hoàn toàn có thể miêu tả rằng chân hoặc tay họ bất ngờ đột ngột Open thực trạng phù nề. Nhưng thường thì, triệu chứng phù xuất hiện kín kẽ và từ từ tăng dần, khởi phát bằng những biểu lộ tăng cân, nặng mí mắt khi thức dậy vào buổi sáng, hay đi giầy thấy chật vào cuối ngày. Phù tuy tiến triển chậm, nhưng thường đã ở mức độ nặng trước khi bệnh nhân đi khám .Triệu chứng phù thường ít gây không dễ chịu ngoài việc mặc quần áo chật ; những triệu chứng đi kèm khác thường do bệnh lý nền gây ra. Bệnh nhân phù do suy tim Suy tim ( HF ) ( nguyên do thường gặp ) thường có khó thở gắng sức, khó thở khi nằm và khó thở kịch phát về đêm. Bệnh nhân bị phù do huyết khối tĩnh mạch sâu Huyết khối tĩnh mạch sâu ( DVT ) ( DVT ) thường kèm theo đau .Phù do tăng thể tích dịch ngoại bào thường đổi khác theo tư thế. Do đó, ở bệnh nhân đi lại được, phù khu trú ở cẳng chân và bàn chân ; ở bệnh nhân nằm nhiều, phù xuất hiện ở mông, bộ phận sinh dục, và mặt sau đùi. Bệnh nhân nữ hay nằm nghiêng một bên, phù hoàn toàn có thể chỉ khu trú ở một bên vú. Tắc mạch bạch huyết gây phù ở phần ngoại vi của vùng ùn tắc .

Sinh lý bệnh

Phù xuất hiện do sự ngày càng tăng dịch từ lòng mạch vào khoảng chừng kẽ, hoặc giảm dịch từ khoảng chừng kẽ vào mao mạch và mạch bạch huyết. Cơ chế gồm có :

  • Tăng áp lực đè nén thủy tĩnh mao mạch
  • Giảm áp lực đè nén keo huyết tương
  • Tăng thẩm thấu mao mạch
  • Tắc nghẽn hệ bạch huyết

Khối lượng tuần hoàn trong lòng mạch suy giảm do có sự di chuyển dịch từ lòng mạch vào khoảng chừng kẽ. Sự suy giảm thể tích nội mạch kích hoạt mạng lưới hệ thống renin-angiotensin-aldosterone-vasopressin ( ADH ), dẫn đến hiện tượng kỳ lạ tái hấp thu natri tại thận. Do có sự ngày càng tăng áp lực đè nén thẩm thấu, việc tái hấp thu natri sẽ kéo theo tái hấp thu nước, và giúp duy trì thể tích huyết tương. Hiện tượng tăng tái hấp thu natri tại thận cũng hoàn toàn có thể là nguyên do chính gây ra thực trạng quá tải dịch Quá thể tích, từ đó gây phù. Hấp thu quá nhiều muối từ khẩu phần ăn bên ngoài cũng hoàn toàn có thể góp thêm phần gây phù .Phù cũng hoàn toàn có thể xảy ra do sự suy giảm áp lực đè nén keo huyết tương, từ đó dịch chuyển dời từ lòng mạch ra khoảng chừng kẽ, ví dụ như trong hội chứng thận hư, bệnh lý mất protein qua đường ruột, suy gan hoặc suy dinh dưỡng .Tăng thẩm thấu mao mạch trong những bệnh lý nhiễm trùng, hoặc do hậu quả của độc tố, hoặc viêm gây tổn thương thành mao mạch .Hệ thống bạch huyết chịu nghĩa vụ và trách nhiệm vô hiệu protein và bạch cầu ( cùng với một phần nước ) ra khỏi khoảng chừng kẽ. Tắc mạch bạch huyết tạo điều kiện kèm theo cho những chất này tích tụ trong khoảng chừng kẽ .

Đánh giá

Lịch sử

Tiền sử các bệnh đang mắc nên có sự mô tả vị trí và thời gian phù, các triệu chứng đau và khó chịu đi kèm, cùng mức độ của chúng. Bệnh nhân nữ nên được hỏi về tình trạng thai sản và sự liên quan của triệu chứng phù đến chu kỳ kinh nguyệt. Các bệnh nhân phù mạn tính nên ghi chép về sự thay đổi cân nặng của mình.

Khám tổng quát các triệu chứng do bệnh lý nguyên nhân gây ra, bao gồm khó thở gắng sức, khó thở khi nằm và khó thở về đêm (suy tim); sử dụng rượu hoặc các chất gây độc gan, vàng da và dễ bị bầm tím (các bệnh lý gan); mệt mỏi, chán ăn (ung thư hoặc các bệnh lý gan hoặc thận); bất động kéo dài, chấn thương tại các chi, hoặc tiền sử phẫu thuật gần đây (huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới).

Các bệnh lý có thể gây phù nên được nêu rõ trongtiền sử, trong đó có các bệnh lý tim mạch, gan, thận và ung thư (bao gồm những lần phẫu thuật hoặc xạ trị). Phần tiền sử cũng nên nêu rõ những tác nhân gây khởi phát các bệnh này, như nhiễm liên cầu, tiền sử nhiễm virus trong khoảng thời gian gần đây (như virus viêm gan), lạm dụng rượu kéo dài hay các bệnh lý tăng đông. Tiền sử dùng thuốc nên bao gồm các câu hỏi về các loại thuốc đặc hiệu có thể gây sốt. Cần hỏi về lượng muối bệnh nhân sử dụng trong bữa ăn.

Khám thực thể

Khám vùng phù để xác lập số lượng giới hạn, mức độ sưng nóng đỏ đau ; đồng thời quan tâm đặc thù đối xứng của triệu chứng. Đánh giá mức độ ấn lõm ( người khám sử dụng ngón tay ấn lên vùng phù để tạo ra những vùng lõm nhìn và sờ thấy rõ ) .Khám body toàn thân để phát hiện những triệu chứng vàng da, bầm tím và sao mạch ( gợi ý có bệnh lý tại gan ) .Khám phổi để phát hiện những triệu chứng gõ đục, rì rào phế nang giảm hoặc tăng, những tiếng rales nổ hoặc rales ẩm và tiếng cọ màng phổi .Khám tĩnh mạch cổ để nhìn nhận những triệu chứng tĩnh mạch cổ nổi và phản hồi gan tĩnh mạch cổ .Khám tim để phát hiện những tín hiệu ổ đập không bình thường không đồng nhất và ổ đập cạnh mũi ức. Nghe tim nhằm mục đích phát hiện những tiếng P ​ 2 ( thành phần thứ 2 của tiếng T2, tiếng T3 ( S ​ 3 ) hoặc T4 ( S ​ 4 ), những tiếng thổi, tiếng cọ màng ngoài tim. Đây đều là những tiếng gợi ý bệnh lý có nguồn gốc tại tim .Khám bụng để phát hiện những triệu chứng cổ chướng, gan to, lách to. Đây là những những triệu chứng gợi ý bệnh lý tại gan hoặc suy tim. Khám phát hiện tín hiệu thận to, gõ tìm diện đục bàng quang. Sờ những khối không bình thường trong ổ bụng nếu có.

Dấu hiệu nguy hiểm

Cần nghĩ đến những nguyên do nguy khốn nếu khám thấy những biểu lộ sau :

  • Khởi phát bất ngờ đột ngột
  • Đau đáng kể
  • Hụt hơi thở

  • Tiền sử rối loạn nhịp tim hoặc khám tim mạch phát hiện không bình thường
  • Ho máu, khó thở, hoặc có tiếng cọ màng phổi
  • Gan to, lách to, vàng da, cổ trướng hoặc nôn máu
  • Phù không phù hợp hai bên, đi kèm ấn đau

Giải thích các dấu hiệu

Cần xác định các nguyên nhân gây phù có khả năng gây đe dọa tính mạng, chúng thường xuất hiện đột ngột và gây phù cục bộ. Bệnh cảnh lâm sàng như vậy thường gợi ý chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới, Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) nhiễm trùng mô mềm hoặc phù mạch. Huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới có thể gây tắc mạch phổi Tắc mạch phổi (PE) Tắc mạch phổi (PE) từ đó dẫn tới tử vong. Nhiễm trùng mô mềm có thể ở mức độ từ nhẹ cho tới gây đe dọa tính mạng, tùy thuộc vào tác nhân căn nguyên cũng như toàn trạng chung của bệnh nhân. Phù dị ứng cấp có thể tiến triển với các triệu chứng tại đường thở và gây hậu quả nghiêm trọng.

Khó thở hoàn toàn có thể Open cùng với phù trong bệnh cảnh suy tim, tắc mạch phổi do huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới, suy hô hấp cấp, hoặc phù dị ứng có triệu chứng tại đường thở .Phù body toàn thân tiến triển chậm gợi ý bệnh lý tim mạch, gan hoặc thận mạn tính. Mặc dù những bệnh lý này cũng hoàn toàn có thể gây đe doạ tính mạng con người, nhưng những biến chứng của bệnh có khuynh hướng Open chậm hơn .

Các yếu tố này, cùng với các biểu hiện lâm sàng khác, sẽ giúp định hướng chẩn đoán nguyên nhânxem bảng Nguyên nhân gây phù Một số nguyên nhân gây phù Một số nguyên nhân gây phù .

Xét nghiệm

Với hầu hết các bệnh nhân có phù toàn thân, nên tiến hành xét nghiệm: công thức máu, điện giải đồ, ure, creatinine, chức năng gan Các xét nghiệm dùng trong bệnh lý gan và túi mật , protein huyết thanh, nước tiểu (đặc biệt lưu ý protein niệu và hồng cầu niệu vi thể). Nên tiến hành các xét nghiệm khác dựa trên căn nguyên đang hướng tới Một số nguyên nhân gây phù Một số nguyên nhân gây phù – ví dụ: BNP nếu nghi ngờ suy tim hay D- Dimer nếu nghi tắc mạch phổi.

Nếu có phù đơn độc chi dưới, nên triển khai siêu âm để loại trừ tắc tĩnh mạch .

Điều trị

Các nguyên do đơn cử được điều trị .Bệnh nhân có bộc lộ tăng tái hấp thu muối nước thường được hưởng lợi từ chính sách ăn hạn chế muối. Bệnh nhân suy tim nên vô hiệu muối trong khẩu phần ăn, đồng thời tránh những thực phẩm chế biến sẵn có muối .Bệnh nhân xơ gan tiến triển hoặc hội chứng thận hư thường cần hạn chế muối khắt khe hơn ( ≤ 1 g / ngày ). Muối kali thường được sửa chữa thay thế cho muối natri để làm cho khẩu phần ăn dễ dung nạp hơn ; tuy nhiên, cần đặc biệt quan trọng thận trọng với những bệnh nhân dùng thuốc lợi tiểu giữ kali, ức chế men chuyển, chẹn thụ thể angiotensin II và những bệnh nhân có bệnh thận, do hoàn toàn có thể gây tăng kali máu Tăng kali huyết .Bệnh nhân có bộc lộ tăng tái hấp thu muối nước cũng được hưởng lợi từ việc sử dụng lợi thiểu quai hoặc lợi tiểu thiazide. Tuy nhiên, không nên dùng thuốc lợi tiểu chỉ nhằm mục đích mục tiêu giảm phù. Thuốc lợi tiểu hoàn toàn có thể gây tích góp kali và gây nguy khốn tới 1 số ít đối tượng người dùng bệnh nhân. Những loại thuốc lợi tiểu giữ kali ( amiloride, triamterene, spironolactone, eplerenone ) ức chế sự tái hấp thu natri trong ống lượn xa và mạng lưới hệ thống ống góp. Khi sử dụng đơn độc, chúng chỉ gây tăng nhẹ mức bài tiết natri. Sử dụng tích hợp triamterene và amiloride với thiazide để ngăn thải kali qua thận. Sự tích hợp giữa nhóm ức chế men chuyển và thiazide cũng làm giảm thải trừ kali .

Các điểm thiết yếu ở người cao tuổi

Ở người cao tuổi, việc sử dụng thuốc điều trị những nguyên do gây phù yên cầu sự thận trọng đặc biệt quan trọng :

  • Liều khởi đầu thấp, nhìn nhận tổng lực bệnh nhân khi biến hóa liều
  • Theo dõi triệu chứng hạ huyết áp tư thế nếu dùng thuốc lợi tiểu, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn thụ thể angiotensin II, hoặc thuốc chẹn beta giao cảm
  • Đánh giá triệu chứng nhịp tim chậm hoặc block tim nếu sử dụng digoxin, những thuốc chẹn kênh canxi có gây chậm nhịp hoặc thuốc chẹn beta giao cảm
  • Thường xuyên kiểm tra thực trạng hạ kali máu hoặc tăng kali máu
  • Không cần dừng thuốc chẹn kênh canxi nếu có phù chân, vì đây là thực trạng lành tính

Ghi lại khối lượng khung hình hàng ngày, từ đó giúp theo dõi những chuyển biến trên lâm sàng .

Những điểm chính

  • Phù hoàn toàn có thể gây ra bởi những bệnh lý body toàn thân hoặc cục bộ .
  • Bệnh lý tim, gan, thận là những nguyên do chính gây phù .
  • Cần khẩn trương nhìn nhận nếu phù xảy ra bất ngờ đột ngột .
  • Phù có thể xảy ra ở bất kỳ đâu trong cơ thể, kể cả não.

  • Triệu chứng phù không phải khi nào cũng nguy cơ tiềm ẩn ; hậu quả của nó phụ thuộc vào đa phần vào nguyên do .