Kim Môn – Wikipedia tiếng Việt

Bài này viết về đơn vị chức năng hành chính của Đài Loan lúc bấy giờ. Đối với những định nghĩa khác, xem Kim Môn ( xu thế )

Kim Môn (giản thể: 金门; phồn thể: 金門; bính âm: Jīnmén; Bạch thoại tự: Kim-mn̂g/Kim-mûi) là một quần đảo nhỏ gồm một số hòn đảo trong đó có Đại Kim Môn, Tiểu Kim Môn, Ô Khâu và một số đảo nhỏ xung quanh, nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Sau khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bị đánh bại trong Nội chiến Trung Quốc và phải rút về Đài Loan, một số hòn đảo nguyên thuộc các huyện khác, như Ô Khâu được chính quyền Đài Loan chuyển giao cho huyện Kim Môn.

Quần đảo này nằm ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Trung Quốc đại lục, chỉ cách thành phố Hạ Môn khoảng chừng 2 km về phía đông. Vị trí kế hoạch của nó phản ánh sự đổi khác đáng kể quan hệ xuyên eo biển, từ một mặt trận cuộc chiến tranh đến một khu vực thanh toán giao dịch giữa Trung Quốc và Đài Loan. Do những yếu tố đang diễn ra về thực trạng chính trị của Đài Loan, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc liên tục công bố Kim Môn thuộc về địa cấp thị Tuyền Châu của tỉnh Phúc Kiến .

Tên gọi Kim Môn (金門; nghĩa đen là “cổng vàng”) xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1387 khi Hồng Vũ Đế của triều Minh bổ nhiệm một quan võ đến quản lý hòn đảo và bảo vệ nó trước các cuộc tấn công của giặc Uy khấu.[1] Tên gọi này được đọc là Jīnmén trong bính âm Quan thoại chính thức và Kim-mûi trong phương ngữ Chương Châu bản địa của tiếng Phúc Kiến.

Quemoy cũng là tên gọi của quần đảo trong các ngôn ngữ phương Tây.[2] Nó có lẽ bắt nguồn từ một dịch âm tiếng Bồ Đào Nha của cách phát âm tên gọi Kim Môn trong phương ngữ Chương Châu, Kim-mûi.[3] Trong tiếng Anh, người ta sử dụng gần như hoàn toàn hình thái tên gọi này của quần đảo cho đến cuối thế kỷ 20 và đến nay nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong các văn bản tiếng Anh có liên quan đến sự kiện lịch sử.[3]

Kinmen là một từ gần đây hơn, dựa trên phương pháp bính âm bưu chính của Trung Hoa Dân Quốc, trong đó “k” được sử dụng thay cho ch hoặc j ở các âm đầu trong Chin-men (Wade–Giles) hay Jīnmén (bính âm). Với một số ngoại lệ, hình thái này được sử dụng trong tiếng Anh ở hầu hết các ngữ cảnh tại Kim Môn và trên toàn bộ Đài Loan. Các thể chế như chính quyền huyện,[4] sân bay của quần đảo,[5] và vườn quốc gia[6] sử dụng hình thái phiên âm này.

Jinmen là từ dựa trên phương pháp bính âm Hán ngữ, nó đặc biệt được sử dụng trong các nguồn từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[7] Chính quyền huyện Kim Môn và chính phủ Trung ương Trung Hoa Dân Quốc đã chấp nhận bính âm Hán ngữ là phương pháp phiên âm latinh tiêu chuẩn của họ, và sử dụng để viết tên gọi các hương trong huyện Kim Môn, song lại không áp dụng cho bản thân tên gọi của huyện.[8]

Từ thời Thanh trở về trước[sửa|sửa mã nguồn]

Việc di dân người Hán khám phá Kim Môn đã khởi đầu từ thời nhà Tấn theo tìm hiểu thêm trong sử liệu. Căn cứ theo ” Kim Môn chí ” thời Thanh, vào thời Tấn có 6 gia tộc : Tô, Trần, Ngô, Thái, Lã, Nhan do muốn tránh chiến họa nên đã di cư đến Kim Môn. Năm Trinh Nguyên thứ 19 ( 803 ), triều đình nhà Đường đã thiết lập 5 mục mã trường tại Tuyền Châu, Ngô Châu là một trong số đó, Trần Uyên ( 陳淵 ) nhậm chức mục mã giám, đó là cơ cấu tổ chức hành chính tiên phong thiết lập trên hòn đảo Kim Môn. Mười hai họ : Thái, Hứa, Ông, Lý, Trương, Hoàng, Vương, Lã, Lưu, Hồng, Lâm, Tiêu theo Trần Uyên đến hòn đảo khai khẩn, Trần Uyên cho nên vì thế mà được tôn là ” khai Ngô ân chủ ” ( 開浯恩主 ) .
Kim Môn ( xưa gọi là Ngô Châu ) dựa vào sản xuất muối, trải qua thời Ngũ Đại Thập Quốc và những triều đại Nguyên, Minh và Thanh, người dân đã tạo nên rất nhiều ruộng muối quanh vịnh Kim Sa ở bán đảo Kim Môn Đông. Năm Hồng Vũ thứ 28 ( 1387 ), Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã lệnh cho Giang Hạ hầu Chu Đức Hưng ( 周德興 ) đi kinh lược vùng duyên hải Phúc Kiến, tổng số thiết lập 5 vệ và 12 sở. Kim Môn thủ ngự thiên hộ sở là một trong 12 sở, quân Minh gọi Kim Môn là ” Trung tả sở “, thuộc quyền quản lý của bốn tuần kiểm tư là Phong Thượng, Quan Áo, Điền Phổ, Trần Khanh, sau tăng thêm Liệt Tự tuần kiểm tư. Do Kim Môn che chắn cho vùng cửa biển đông nam Phúc Kiến, tên gọi Kim Môn bắt nguồn từ ý ” cố nhược kim thang, hùng trấn hải môn ” .Thời kỳ Nam Minh, Kim Môn trên trong thực tiễn do chính quyền sở tại Trịnh Thành Công khống chế. Lỗ vương Chu Dĩ Hải ( 朱以海 ) nguyên là giám quốc của Nam Minh, sau khi trốn thoát khỏi quân Thanh đã vượt biển sang nương nhờ Trịnh Thành Công, tới Kim Môn vào năm 1651. Quân Thanh công chiếm Kim Môn vào năm 1663, [ 9 ] sau đó triều Thanh đã cho thi hành thiên giới lệnh ( 遷界令 ), cưỡng chế dân cư sơ tán đến những vùng đất cách bờ biến ngoài 30 lý, trên hòn đảo vì vậy không còn một bóng người. Từ năm 1674 đến 1679, họ Trịnh tái chiếm Kim Môn, lấy quần đảo làm địa thế căn cứ cho việc triển khai những hoạt động giải trí quân sự chiến lược tại nội lục. Năm 1680, quân Thanh lần thứ hai công chiếm Kim Môn. Năm 1683, sau khi quân Thanh công chiếm Đài Loan, đã thực thi phục giới, những dân cư từng phải dời đi do thiên giới và hậu duệ của họ từ từ trở lại nguyên tịch .

Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Vô vong tại Cử (毋忘在莒).[10]Bút tích của Tưởng Giới Thạch khắc trên vách đá ở Kim Môn. Thành ngữ ( 毋忘在莒 ) .Năm 1914, huyện Tư Minh ( nay là Hạ Môn ) được phân ra từ huyện Đồng An, Kim Môn phân thuộc thuộc quyền quản lý của huyện Tư Minh. Sang năm 1915, cơ quan chính phủ Quốc dân xây dựng huyện Kim Môn độc lập, quản trị những hòn đảo Đại Kim Môn, Tiểu Kim Môn, Đại Đặng, Tiểu Đặng cùng những hòn đảo xung quanh. Năm 1933, sau khi xảy ra Mân biến, Kim Môn do Trung Hoa Cộng hòa quốc chiếm giữ trong thời hạn chính quyền sở tại này sống sót, thuộc tỉnh Hưng Tuyền. Trong cuộc chiến tranh Trung-Nhật, vào năm 1937, quân Nhật sở hữu Kim Môn, cơ quan chính phủ huyện Kim Môn của Nước Trung Hoa Dân Quốc trong thời điểm tạm thời dời đến hương Đại Đặng. Sau khi kết thúc Chiến tranh quốc tế thứ hai, Nước Trung Hoa Dân Quốc tịch thu Kim Môn, thiết lập 2 trấn và 4 hương, sang năm 1946 thì sắp xấp lại thành 2 trấn và 2 hương .Sau Nội chiến Trung Quốc lần hai, năm 1949, chính quyền sở tại Nước Trung Hoa Dân Quốc thiết lập bốn khu văn phòng là Kim Thành, Sa Mỹ, Liệt Tự, Đại Đặng tại Kim Môn. Đến tháng 10, Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc tiếp quản tổng lực Kim Môn. Từ ngày 25-27 tháng 10 năm 1949, tại Đại Kim Môn đã diễn ra chiến dịch Cổ Ninh Đầu, Giái phóng quân đã thất bại với thiệt hại theo ước tính của Trung Quốc Dân Quốc là 4.000 lính chết và 7.000 lính bị bắt. [ 11 ] Kết quả của đại chiến này không riêng gì làm tiêu tan tham vọng lấn chiếm Kim Môn và vượt biển lấn chiếm Đài Loan của Giải phóng quân mà còn hồi sinh niềm tin chiến đấu của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc. [ 11 ]
Đến tháng 11 năm 1949, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh, Nước Trung Hoa Dân Quốc triệt tiêu huyện Kim Môn, phân quần đảo thành ba khu là Kim Đông, Kim Tây và Liệt Tự, mỗi khu thiết lập một dân chính xứ để quản trị hành chính địa phương, được chia tiếp thành 9 khu văn phòng : Thành Sương, Kim Thành, Kim Bàn, Thương Hồ, Bích Hồ, Kim Sa, Liệt Tự, Cổ Ninh, Quỳnh Phổ. Tháng 3 năm 1950, ba dân chính xứ hợp thành ” Kim Môn quân quản khu hành chính công thự “. Tháng 7 năm 1951, Kim Môn được phân lại thành 5 khu : Kim Thành, Kim Ninh, Kim Hồ, Kim Sa, Liệt Tự. Đến tháng 12 năm 1951, Kim Môn có thêm hương Kim Sơn, tổng số có 6 khu. Tháng 2 năm 1953, Kim Môn kết thúc chính sách quân quản, chính quyền sở tại huyện Kim Môn được Phục hồi, những khu được đổi thành hương và trấn, Kim Môn có 3 hương và 3 trấn .Tháng 6 năm 1954, địa khu Ô Khâu của huyện Phủ Điền được chuyển thành một hương, được chỉ định do huyện Kim Môn trong thời điểm tạm thời quản trị. Lúc này, huyện Kim Môn tổng số có : trấn Kim Thành, trấn Kim Sa, hương Kim Ninh, hương Kim Hồ, hương Kim Sơn, hương Liệt Tự, hương Ô Khâu. Năm 1959, xây dựng thêm hương Kim Quỳnh, đồng thời đổi Kim Hồ thành trấn. Tháng 9 năm 1965, triệt tiêu hương Kim Sơn và hương Kim Quỳnh .Từ ngày 23 tháng 8 đến 5 tháng 10 năm 1958, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc công bố ” đoàn kết với cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Trung Đông “, phát động pháo kích Kim Môn, hay ” Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần hai “, tổng số phía Giải phóng quân đã bắn hơn 47 vạn đạn pháo vào quần đảo Kim Môn, ngoài pháo kích ra, hai bên tổng số phát sinh hơn 20 lần hải chiến. [ 11 ] Sau đó, vỏ đạn pháo đã trở thành một nguồn nguyên vật liệu tái chế Giao hàng cho ngành sản xuất thép tại Kim Môn, Kim Môn trở nên nổi tiếng với loại sản phẩm dao phay được làm từ vỏ đạn pháo Trung Quốc .Năm 1979, Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc đại lục công bố rằng họ sẽ đình chỉ pháo kích vào Đại, Tiểu Kim Môn và những hòn đảo khác, chấm hết 21 năm pháo chiến tại Kim Môn. Ngày 18 tháng 10 năm 1995, vườn vương quốc Kim Môn được xây dựng, trở thành vườn vương quốc thứ sáu của Nước Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 3 tháng 2 năm 2004, tuyến hàng hải Kim Môn-Hạ Môn đã được mở, mở màn tiểu tam thông giữa hai bên .

Đảo Đại Đảm và bảng chữ tâm lý chiến “Tam dân chủ nghĩa thống nhất Trung Quốc” hướng sang Hạ Môn

Kim Môn nằm ở ngoài cửa sông của Cửu Long Giang, trông ra cửa vịnh Hạ Môn, chỉ cách Giác tự ( 角嶼 ) do Trung Quốc đại lục trấn áp gần 1,8 km, cách hòn đảo Đài Loan 210 km. Quần đảo Kim Môn gồm có những hòn đảo : thay máu chính quyền Kim Môn ( Đại Kim Môn ), Liệt tự ( Tiểu Kim Môn ), Đại Đảm, Nhị Đảm, Sư tự ( 獅嶼 ), Mãnh Hổ tự ( 猛虎嶼 ), Thảo tự ( 草嶼 ), Hậu tự ( 后嶼 ), Đông Đĩnh ( 東碇 ), Phục Hưng ( 復興 ) và 12 hòn đảo lớn nhỏ khác, tổng diện tích quy hoạnh là 151,656 km² .Riêng hương Ô Khâu, gồm hai hòn đảo Đại Khâu và Tiểu Khâu, nằm ngoài khơi thành phố Phủ Điền của Trung Quốc đại lục. Ô Khâu nằm cách xa quần đảo Kim Môn, ở vào khoảng chừng giữa Kim Môn và Mã Tổ .Kim Môn có khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, có vĩ độ tương tự với Đài Trung. Tuy nhiên, nhiệt độ bốn mùa trong năm ở Kim Môn thấp hơn không nhỏ so với nhiệt độ ở hòn đảo Đài Loan, nếu không tính huyện Liên Giang thì Kim Môn là huyện lạnh nhất Trung Quốc Dân Quốc. Lượng mưa trong năm của Kim Môn tập trung chuyên sâu từ tháng 4 đến tháng 9, trung bình đạt 1.049,4 mm. Ở Kim Môn, địa tầng cổ nhất hầu hết là đá phiến ma hoa cương, thổ nhưỡng nói chung là đất cát và đất đỏ, điều kiện kèm theo tự nhiên không không tốt, tăng trưởng nông nghiệp chịu sự hạn chế .

Phân chia hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Bản đồ hành chính huyện Kim MônHuyện Kim Môn được chia thành 3 trấn và 3 hương :

Tất cả các hương và trấn có tên bắt đầu bằng chữ Kim nằm trên đảo Đại Kim Môn. Hương Liệt Tự nằm trên đảo Tiểu Kim Môn và là nơi gần nhất với Hạ Môn. Hương Ô Khâu nằm trên hai đảo nhỏ là Đại Khâu và Tiểu Khâu. Kim Thành và Kim Sa là các trấn lớn nhất. Tổng cộng, huyện Kim Môn có 37 thôn và lý, ba trong số này (đều nằm trong các trấn) gọi là ; còn lại là thôn.

Nhà theo kiến trúc truyền thống lịch sử ở thôn Thủy Đầu

Người dân Kim Môn tự xem mình là người Kim Môn, người Mân Nam, hay người Trung Quốc, và không nhiều người xem mình là người Đài Loan.[12][13] Bản sắc Trung Quốc mạnh mẽ đã được tôi luyện trong thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc đối đầu quân sự với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khi Kim Môn nằm dưới quyền quân quản.[12] Trong thập niên 1980, khi việc quân phiệt hóa được giảm bớt và thiết quân luật được chấm dứt, phong trào Đài Loan độc lập và các nỗ lực nhằm phi Trung Quốc hóa đã gia tăng cường độ tại Đài Loan.[12] Tuy nhiên, đối với người Kim Môn, họ lo lắng trước những động thái này và có một cảm giác rằng “Đài Loan không đồng nhất với Kim Môn”.[12] Nhiều người lo ngại rằng việc Đài Loan độc lập “trên pháp lý” khỏi Trung Quốc sẽ dẫn đến cắt đứt các quan hệ với Kim Môn.[12] Những mối quan tâm này cũng đóng một vai trò mạnh mẽ trong chính trị Kim Môn.[12]

Nhiều dân cư tại Kim Môn nói tiếng Phúc Kiến, hầu hết những dân cư sẽ nói rằng họ nói ” tiếng Kim Môn “, trái chiều với tên gọi ” tiếng Đài Loan ” như cách ngôn ngữ này được gọi phổ cập tại Đài Loan, mặc dầu hai phương ngữ hiểu lẫn nhau. Các dân cư ở hương Ô Khâu nói tiếng Phủ Tiên, trái ngược với phần còn lại của Kim Môn .

Kim Môn nổi tiếng với một số sản phẩm văn hóa. Do phải hứng chịu hành động pháo kích trên diện rộng của Đại lục, Kim Môn nổi tiếng với sản phẩm dao đạn pháo. Các thợ thủ công địa phương đã thu thập một số lượng lớn đạn pháo đã phát nổ và làm ra các con dao có chất lượng cao, chúng vẫn được những đầu bếp và những người yêu thích tìm kiếm. Kim Môn cũng là nơi có loại rượu Kim Môn Cao lương nổi tiếng, một loại rượu mạnh có độ cồn từ 38 đến 63 phần trăm, được người Đài Loan đánh giá cao. Các đặc sản ẩm thực tại địa phương khác bao gồm mì Kim Môn (金門麵線), cống đường (貢糖) và thịt bò khô (牛肉乾).

Giống như ở quần đảo Lưu Cầu, Kim Môn được biết đến với một số ít tượng phong sư da ( 風獅爺 ). [ 14 ]
Kinh tế Kim Môn đa phần dựa vào du lịch và dịch vụ do vị trí nằm gần Trung Quốc đại lục. [ 15 ] [ 16 ] Do có tầm quan trọng về quân sự chiến lược, tăng trưởng ở quần đảo từng rất giới bị hạn chế. Do vậy, lúc bấy giờ nó đã trở thành một khu vực du lịch cuối tuần quen thuộc so với người Đài Loan và được biết đến với những thôn làng yên bình, kiến trúc kiểu cổ, và những bờ biển. Một hầu hết Kim Môn tạo thành vườn vương quốc Kim Môn với những công sự và cấu trúc quân sự chiến lược, những đạn pháo xưa và cảnh sắc vạn vật thiên nhiên .

Một câu cầu dài 5,4 km (3,4 mi) kết nối giữa Đại Kim Môn và Liệt Tự đã được lên kế hoạch sẽ hoàn thành vào năm 2020, với chi phí ước tính 7,5 tỉ Đài tệ (250 triệu USD).[17] Sân bay Kim Môn nằm trên Đại Kim Môn.

Vào tháng 8 năm 2010, Đại học Quốc lập Kim Môn ( 國立金門大學 ) đã được xây dựng trên cơ sở Học viện Kỹ thuật Quốc lập Kim Môn. [ 18 ] Quần đảo cũng có những khu trường sở vệ tinh của Đại học Minh Truyền và Đại học Quốc lập Cao Hùng .