6 lễ trong đám cưới là gì? Tất tần tật về lễ cưới Việt Nam truyền thống – Veronica Wedding- Thương hiệu số 1 về áo khỏa

Theo thời gian, đám cưới Việt Nam nay đã khác xưa rất nhiều. Mời các bạn cùng Veronica Wedding tìm hiểu 6 lễ trong đám cưới là gì để hiểu hơn các nghi lễ phong tục truyền thống cũng giống như tìm phương thức tổ chức sao cho hợp nhất qua bài viết dưới đây nhé.

6 lễ trong đám cưới là gì

1. Lễ Nạp Thái

Trong lễ tục hôn nhân truyền thống, “nạp thái” có hàm ý là “thu nạp những sính lễ mà nhà trai mang lại để thưa chuyện với nhà gái”, là lễ đầu tiên trong trình tự “lục lễ”. Nhà Trai mang đôi chim nhạn đến nhà Gái làm sính lễ. Lễ nạp thái dùng chim nhạn là vì: “chim nhạn biểu trưng cho sự thuận theo thời tiết âm dương và hàm ý người vợ sẽ theo đạo nghĩa của người chồng”.

Cụ thể, lễ nạp thái dân gian gọi là lễ chạm ngõ, một lễ đơn giản để bà mối dẫn đầu đoàn của nhà trai sang thăm nhà gái. Số lượng các thành viên trong đoàn khá đơn giản nhưng cần là người có óc quan sát, có tài trò chuyện đối đáp và bắt buộc phải có chú rể đi cùng.

Lễ này là để hai bên gia đình trao đổi khảo sát, bản chất là một dạng lễ xem mặt và xem tướng của cô gái (bao gồm từ dung mạo tới nét mặt, dáng đi, giọng nói, cử chỉ, khả năng nấu nướngm quán xuyến lo liệu việc nhà), đồng thời cũng là bước đà để nhà trai coi gia cảnh và gia phong của nhà gái.

Lễ nạp thái là chặng trước tiên của cuộc hôn nhân nhưng chưa có tác dụng ràng buộc hai bên. Một trong hai phía không bằng lòng thì hoàn toàn có thể nói với bà mối để không tiến hành tiếp các lễ phía sau.

2. Lễ Vấn Danh

Nhà trai cử một đoàn vài ba người với lễ vật gồm chè, rượu, trầu, cau. Trọng điểm của lễ này là nhà trai nhận biết ngày tháng năm sinh của cô gái, để về xem tuổi. Khi nhà trai đến thì nhà gái đưa ra một tờ giấy đã ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh của cô gái; đôi lúc cả giờ sinh nếu như bên nhà trai có yêu cầu.

Lễ vấn danh là để hai bên trao đổi danh thiếp, nhà trai thông qua người mối, cử một đoàn vài ba người với lễ vật gồm chè, rượu, trầu, cau đến nhà gái để biết nội dung gồm ngày tháng năm sinh của cô gái về coi tuổi (còn gọi là so tuổi). Lễ này cũng giống lễ nạp thái, chưa phải là bước quyết định của hôn nhân.

Nếu như mệnh hai người tương sinh thì rất hợp, ví như chồng mệnh Kim, vợ mệnh Thủy, Kim sinh Thủy là tương sinh. Trái lại chồng mệnh Kim vợ mệnh Mộc, Kim khắc Mộc là tương khắc. Tiếp đến người ta còn xét kĩ tới hệ can chi để tính toán được chuẩn xác và ổn hơn.

Tại thời điểm này, nhiều cặp vợ chồng ăn ở với nhau rất hạnh phúc mà không cần so tuổi, chọn ngày để tiến hành hôn lễ. Xưa lễ này cũng thể hiện thói quen vào thuật số và được giữ vững đến giờ, mỗi nơi có khả năng sẽ có biến thể hoặc sự nệ cổ không giống nhau.

Hình ảnh một đám cưới của gia đình quyền quí xưa (Ảnh minh họa: Lao động Thủ đô).

3. Lễ Nạp Cát

Đối với đám cưới nước ta, sau lễ vấn danh, bên nhà trai thấy đôi trẻ hợp tuổi, liền đánh tiếng để xin làm lễ ăn hỏi. Tất nhiên phải chọn ngày lành, tháng tốt. Bên nhà trai thường hỏi ý kiến bên nhà gái các điểm quan trọng cụ thể và số lễ vật. Nhà gái nếu như mong muốn lễ to thì nói ý tứ: Họ hàng nội, ngoại đông, bạn bè giao du rộng, nhà trai coi đấy mà biện lễ. Lễ vật thường là buồng cau to ba, bốn trăm quả, dăm chai rượu nếp trắng, một mâm xôi gấc, có nhà sính lễ nhiều hơn thì có thêm thủ lợn hoặc con lợn sữa quay, trà, bánh trái….

Lễ nạp cát trong dân gian gọi là lễ ăn hỏi. Sau lễ vấn danh, bên nhà trai thấy đôi trẻ hợp tuổi liền đánh tiếng để xin làm lễ ăn hỏi. Nhà trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt và hỏi ý kiến nhà gái các điểm quan trọng rõ ràng về số lễ vật.

Ngày xưa lễ này ở nông thôn thường có một vài buồng cau to độ ba, bốn trăm quả (đủ số cau biếu, mỗi phần ba quả, ít đi là một quả, không bao giờ hai quả – vì cho đó là thô tục); dăm chai rượu trắng, một mâm xôi gấc, một cái thủ lợn. Ở thành phố thì xôi gấc, lợn quay, trà, rượu màu và bánh trái, trầu, cau… Sau này người ta bỏ bớt xôi gấc, lợn quay mà thay vì vậy là các loại bánh dân tộc như: Bánh chưng, bánh dày, bánh cốm, bánh phu thê.

Bánh cốm gói lá chuối xanh kèm với bánh phu thê làm bằng loại bột lọc, nhuộm màu vàng như ngọc. Bánh cốm tượng trưng cho âm, bánh phu thê tròn tượng trưng cho dương (cũng biểu thị nam và nữ, trời và đất). Bánh cốm, bánh phu thê (có nơi gọi là bánh su sê) lại thêm mứt sen, chè cân loại hảo hạng, cau tươi và trầu không sao cho tương xứng với số bánh trái trên, cùng với dăm ba chai rượu màu.

Bánh su sê hay bánh phu thê?
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai sẽ mang lễ vật tới nhà gái theo thỏa thuận từ trước, chắc chắn không thể không có bánh phu thê, trầu cau (Ảnh minh họa: Báo Điện tử Phụ nữ TP Hồ Chí Minh).

Đại đức Thích Minh Nghiêm lí giải đơn giản rằng: Trong lễ cưới, bánh phu thê hay thường được gọi là bánh su sê là lễ vật không thể nào thiếu. Bánh này làm bằng bột đường trắng, dừa, đậu xanh và các thứ hương ngũ vị, nặn hình tròn, bọc bằng hai khuôn hình vuông úp lại với nhau vừa khít. Khuôn làm bằng lá dừa, lá cau hoặc lá dứa. Vỏ để nguyên không luộc để giữ màu xanh thắm.

Sở dĩ việc gọi là bánh phu thê (chồng vợ) vì đấy là biểu tượng của đôi cô dâu chú rể phận đẹp duyên ưa: vuông tròn, trong trắng mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm. Cùng lúc đó cũng là biểu tượng của đất trời (trời tròn, đất vuông) có âm dương ngũ hành: ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.

Bánh phu thê (chồng vợ) là biểu tượng của đôi vợ chồng phận đẹp duyên ưa (Ảnh minh họa: Gia đình Xã hội).

4. Lễ Nạp trưng

Hay thường được gọi là thách cưới. Nội dung của lễ này là nhà gái đòi hỏi nhà trai phải nạp những gì. Nhà gái thường nói đội lên những đòi hỏi rất cao về các đồ sính lễ như: vòng, xuyến, hoa tai, xà tích, quần áo mớ ba mớ bảy, bạc trắng, tiền giấy, rượu, gạo, lợn… Nhà trai tùy khả năng có thể mà thuyết phục. Có lẽ mà vì điều đó khi nàng dâu mới về nhà bị mẹ chồng làm khó.

5. Lễ Thỉnh Kỳ

Là Lễ xin định ngày giờ làm Lễ Cưới, tuy nhiên ngày giờ cũng do bên trai định, rồi hỏi lại ý kiến bên gái mà thôi, bình thường thì nhà gái cũng tùy ý bên trai.

6. Lễ Thân Nghinh

Là đã được nhà gái ưng thuận, ngày giờ đã định của bên trai. Bên trai đem lễ vật sang làm lễ rước dâu về. Vì đây là một Lễ khá nhấn mạnh trong đám cưới Việt Nam truyền thống vì điều đó cần phải kiêng kị một vài điều:
– Cô dâu, chú rể không ở trong thời kỳ chịu tang
– Ngày giờ cưới phải tránh các giờ không vong, sát chủ và phải tránh tháng ngâu (tháng 7 âm lịch)
Trước giờ đón dâu vài ba tiếng đồng hồ, nhà trai lại cử người đến nhà gái với cơi trầu xếp đủ 12 miếng trầu cánh phượng, 12 miếng cau cánh tiên, đến nhà tân nương báo xin giờ đón dâu. Việc xin dâu lúc vào lúc áp ngày, giờ cưới mục đích nhằm đảm bảo cho lễ cưới trơn tru, tránh điều tai tiếng có thể tạo ra đối với cá nhân họ hàng, quan khách hay đám cưới không có tân nương.

Hình ảnh lễ Thân Nghinh xưa (Nay là lễ đón dâu).

 

Tổng kết

Dù đám cưới Việt Nam hiện đại đã có nhiều thay đổi song vẫn giữ nhiều nét văn hóa truyền thống. Bởi khách mời trong đám cưới vẫn có nhiều vị cao tuổi, quen nếp sống cũ, bên cạnh đấy cũng có những vị khách trẻ tuổi mang cách điệu mới mẻ nên hiểu về 6 lễ trong đám cưới là gì? để có thể dung hòa giữa phong tục truyền thống và các nét văn hóa phương Tây khiến đám cưới thêm vui vẻ, hợp lý.

Nguồn: Tổng hợp