Burberry – niềm tự hào của thời trang Anh quốc

Vào cuối năm 1880, Thomas Burberry cho phép hai con trai ông là Thomas Newman Burberry và Arthur Michael Burberry cùng tham gia công việc kinh doanh. Công ty sau đó đã hoạt động dưới hình thức liên doanh theo tên gọi “Thomas Burberry & Sons”.

Khi công việc kinh doanh mở rộng, Thomas Burberry quyết định hướng tới thị trường miền Tây Luân Đôn, bắt đầu bằng việc thuê lại mặt bằng tại Khách sạn Jermyn Street năm 1891. Để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ hàng hóa ngày càng lớn mạnh trên thị trường, năm 1901, ông đã hợp đồng với R. B. Rolls, cấp phép kinh doanh dưới tên thương hiệu Burberry tại số 30 Haymarket.

Nhằm đẩy mạnh việc sản xuất những loại vải đặc biệt của mình, Thomas Burberry đã xây dựng một nhà máy tại phố London, Basingstoke. Ngay sau đó, ông mua lại một nhà máy khác tại Farnworth, Lancashire.

Ngoài việc đẩy mạnh mảng bán lẻ thông qua hệ thống cửa hàng, công ty có một nhà kho tại London và hệ thống bán sỉ đặt tại Golden Square. Từ đây, những mặt hàng cao cấp và quần áo mang thương hiệu Burberry đi qua các kênh trung gian đến toàn thế giới.

Công việc kinh doanh của Burberry tiếp tục phát triển bằng việc mở chi nhánh bán sỉ tại New York, Buenos Aires và Montevideo. Năm 1909, cửa hàng đầu tiên của Burberry tại Pháp khai trương trên đại lộ Malesherbes, Paris. Năm 1912, Thomas Burberry chuyển trụ sở đến số 18-22 Haymarket, London.

Do đối tác của Burberry đòi hỏi một biểu tượng điển hình để dễ nhận diện sản phẩm, hình ảnh kỵ sĩ của tuấn mã, mô phỏng từ bộ giáp trong bộ sưu tập Wallace năm 1904, đã được đăng ký độc quyền thương hiệu trên toàn thế giới. Mũi giáo kỵ sĩ đẩy lùi các mối đe dọa ẩn chứa cam kết về độ bền của sản phẩm.

Từ “Prosum”, theo nghĩa Latin là giới từ sử dụng trong nghiên cứu huy hiệu dưới một đế chế nghĩa là “tiến về phía trước”, hàm ý về sự tiến triển trong quá trình sản xuất và sáng tạo.

y4oOP3Rx.jpgPhóng toLC99u4MK.jpg Sản phẩm của Burberry

Năm 1920, đối tác của Thomas Burberry quyết định kêu gọi đầu tư công khai bằng việc chuyển đổi thành mô hình công ty TNHH và chính thức lên sàn chứng khoán London.

Năm 1926, Thomas Burberry qua đời ở tuổi 90. Con trai của ông là Thomas Newman Burberry cũng mất một năm sau đó. Arthur Micheal Burberry tiếp tục sự nghiệp tại cửa hàng ở Haymarket cho đến đầu năm 1951 thì nghỉ hưu. Alfred Brian Burberry (con trai của Arthur Micheal Burberry) là thành viên cuối cùng của gia đình Burberry sau khi nghỉ hưu và rời khỏi công ty vào năm 1956.

Năm 1955, hệ thống The Great Universal Stores Limited (GUS) mua toàn bộ cổ phần của công ty và chuyển đổi thành cổ phiếu tung ra thị trường chứng khoán London. Lượng cổ phiếu phát hành trên thị trường được GUS mua lại vào năm 1966.

Hiện tại, có khoảng 57 cửa hàng kinh doanh dưới tên hệ thống này. Và thêm 33 giấy phép lưu hành để sản xuất sản phẩm trên thị trường dưới tên thương hiệu Burberry.

Công ty luôn tự hào được nhận nhiều giải thưởng quan trọng của Hoàng gia và Nữ hoàng Elizabeth II, Thái tử Charles. Từ năm 1966 đến nay, Burberry đã được trao sáu giải thưởng Hoàng gia vì những thành tựu đã đạt được về xuất khẩu.

Cam kết của Thomas Burberry đối với kiểu dáng và tính năng trong thiết kế trang phục có ý nghĩa rất quan trọng trong suốt quá trình phát triển của công ty và các sản phẩm của mình. Chú ý cách những người chăn cừu địa phương và những người chủ trang trại mặc áo khoác ngoài bằng vải lanh, loại áo này rất mát khi mặc vào mùa hè và rất ấm áp khi mặc vào mùa đông, ông đã thử áp dụng những nguyên tắc như vậy cho những trang phục khác.

Vào năm 1879, ông đã phát triển ra một loại vải mới có thể chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt. Ông gọi loại vải đó là “gabardine” và đã đăng ký thương hiệu cho tên gọi đó.

Áo mưa bằng vải gabardine đầu tiên của Burberry xuất hiện đầu thế kỷ XX. Do thiết kế của nó nên được gọi là “the slip-on” (áo mặc chui qua đầu).

Với việc phát minh ra xe ôtô tại thời điểm chuyển giao của thế kỷ, Burberry đã chuyển sang đầu tư sản xuất đồ thể thao đa dụng và ngày càng nổi tiếng. Áo khoác gió dài được làm bằng các loại chất liệu như vải tuýt và da. Những kiểu áo nam giới có thể phủ cả đôi chân như một tấm mền du lịch khi người ta lái xe.

Năm 1901, Thomas Burberry thiết thế áo mưa, trở thành chuẩn mực phong cách cho các sĩ quan. Thêm vào các cầu vai đa dụng, dây đeo và khoen chữ D, nó được gọi là “The Trench Coat” (áo choàng).

Trang phục Burberry cũng nổi bật trong thời bình. Những nhà thám hiểm Na Uy, trong đó có thuyền trưởng Roald Amundsen, đã mặc những sản phẩm của Burberry khi trở thành người đàn ông đầu tiên đặt chân đến Nam cực. Roald viết: “Kính thưa quý ngài, thật lòng cảm ơn, những áo khoác Burberry được dùng rất nhiều trong suốt cuộc hành trình đến Nam cực và đã chứng tỏ nó thật sự là người bạn tốt”.

7qthYP3j.jpgPhóng toaKI9Jeho.jpgPzbQLFxJ.jpgSản phẩm của Burberry

Ông ta đã để lại chiếc lều Burberry bằng vải gabardine tại Nam cực để thông báo sứ mệnh thành công của thuyền trưởng Scott. Thuyền trưởng đoàn thám hiểm R.F.Scott và ngài Ernest Shackleton đã mặc áo khoác gió vải gabardine Burberry trong suốt cuộc thám hiểm của họ.

Tương tự như vậy, những phi công và những người đi bằng khinh khí cầu được sưởi ấm bằng ánh sáng mặt trời nhưng vẫn mặc áo khoác gió Burberry. Phi cơ trưởng John William Alcock và Trung úy Arthur Whitten Brown, đã mặc trang phục Burberry khi họ là người đàn ông đầu tiên bay qua Đại Tây Dương vào năm 1919.

Trong lá thư gửi Thomas Burberry, John viết: “Tôi viết lá thư này để nói với ông rằng tôi đã thỏa mãn như thế nào với những gì Burberry chứng minh khi tôi đã đặt hàng từ ông cho chuyến bay qua Đại Tây Dương. Mặc dù sương mờ liên tục, mưa hay mưa đá, nhưng tôi vẫn được giữ ấm, khô thoáng và thoải mái”.

Vào năm 1917, từ “gabardine” trở thành danh từ chung. Theo lời khuyên của các luật sư, Thomas Burberry đã từ bỏ việc đăng ký thương mại cho từ này.

Sọc carô nổi tiếng của Burberry bấy giờ được đăng ký như là một thương hiệu, được giới thiệu lần đầu như là vải lót cho quần áo đi mưa vào năm 1924. Màu camel, màu đen, màu đỏ, màu trắng đã trở thành biểu tượng quốc tế gắn liền với Burberry.

Trong hai thập niên 1950 và 1960, áo choàng Burberry đã được các ngôi sao điện ảnh hàng đầu lựa chọn chẳng hạn như Humphrey Bogart và Ingrid Bergman trong Casablana, Audrey Hepburn trong Buổi sáng ở Tiffany và Peter Sellers trong phim The Pink Panther.

Trong quá trình sản xuất và cải tiến sản phẩm Burberry tuân thủ các nguyên tắc của người sáng lập đã đưa ra, nhưng với mỗi bộ sưu tập mới vẫn giữ lại những nét riêng, những tinh hoa của phong cách cổ điển.

1epvWk4m.jpgPhóng toGfB8dkgw.jpgSản phẩm của Burberry

Vào đầu thế kỷ XX, áo mưa của Burberry được xem như một phần không thể thiếu trong quân trang của những sĩ quan trong quân đội. Loại vải cotton nhẹ được ưa chuộng hơn so với loại áo mưa tráng lớp cao su nặng nề hay sử dụng thời bấy giờ. Thống soái Kitchener của Anh cũng sử dụng loại trang phục này.

Năm 1914, áo choàng Burberry đã có thêm những đồ trang trí trên cầu vai của bộ đồng phục sĩ quan và những khoen hình chữ D, gắn liền với các thiết bị quân đội, từ đó trở nên rất phổ biến với các sĩ quan mà phong cách này đã trở nên nổi tiếng với tên gọi là “Trenchcoat” (áo choàng). Sau đó, các nước khác như Pháp, Mỹ… cũng làm giống theo kiểu này. Kiểu này không lâu sau trở nên kiểu chính thức của Burberry, nhưng đã bị làm giả khắp nơi.

Áo choàng vẫn tiếp tục là một loại trang phục đi mưa cần thiết. Những chi tiết chắc chắn và hữu ích vẫn được giữ nguyên vẹn đến ngày nay. Một số chi tiết được trang trí sắc sảo hơn, chẳng hạn như chiếc khoen kim loại chữ D ở thắt lưng.