Chương 4. DÀN CỤC MỸ NHÂN, BÁO THÙ CHO VƯƠNG Á TIỀU – CAO THỦ ÁM SÁT ĐỆ NHẤT TRUNG QUỐC

Chương 4. 

DÀN CỤC MỸ NHÂN, BÁO THÙ CHO VƯƠNG Á TIỀU – CAO THỦ ÁM SÁT ĐỆ NHẤT TRUNG QUỐC

Bát tự luận đoán họa phúc

Sau khi Tiên Nhân Thủ chết, Tam Bá đầu cho rằng cơ hội đã đến, liền ra sức tiến cử với Tổ Gia học trò tâm phúc của mình là Vương Gia Hiền, vào ngồi ở vị trí Thất Bá đầu. Sau vài lần bàn bạc, mặc dù Nhị Bá đầu có chút bất mãn, nhưng Tổ Gia vẫn gật đầu đồng ý. Cuối cùng, Vương Gia Hiền được ngồi vào chiếc ghế thứ bảy.

Vương Gia Hiền đi theo Tổ Gia năm 1946. Anh ta có dáng người cao gầy, ưa sạch sẽ, mỗi lần đi ra ngoài đều mặc áo dài nai nịt gọn gàng, tóc bôi dầu thơm chải ngược ra sau, trông rất hào hoa, nho nhã. Vương Gia Hiền bảo rằng tên của anh ta là do cha đặt cho, có nghĩa là gia đạo hiền lương. Tôi nghĩ khi cha anh ta đặt cho cái tên này, chắc chắn không thể ngờ được rằng sau này con trai mình lại toàn làm ra những việc lừa đảo, hãm hại người khác.

Thân phận khi xuất hiện ở bên ngoài của anh ta là một giáo viên dạy tiểu học gương mẫu trong trường quốc lập của Chính phủ Dân Quốc thuộc phe Quốc dân Đảng. Anh ta đọc sách nhiều, có tài ăn nói hạng nhất, tư tưởng tân tiến, có nhiều bài viết hay, rất được phụ nữ thời kỳ Dân quốc yêu mến, hơn nữa lại còn là quân sư giỏi của Tổ Gia. Trước mỗi lần dàn cục, Tổ Gia đều hỏi ý kiến anh ta. Ai có thể ngờ được rằng, đường đường một thầy giáo tiểu học đạo mạo lại có thể là một tay lừa đảo có hạng đây?

Lần đầu tiên anh ta giúp Tổ Gia dàn cục là nhằm vào vợ của một viên sĩ quan Quốc dân Đảng. Năm đó, Quốc dân Đảng gặp phải tình hình tiền tuyến nguy cấp, viên sĩ quan kia đã gửi một bức thư về nhà cho vợ. Trong thư tràn ngập lời lẽ thống thiết coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, hồi tưởng chuyện xưa phu thê ân ái. Từ đầu đến cuối thư bao trùm thâm ý sinh ly tử biệt khiến bà vợ ngày nào cũng khóc lóc, lo lắng, không thiết gì đến chuyện ăn uống.

Tâm trạng của bà ảnh hưởng trực tiếp đến đứa con, vừa hay cậu bé này là học sinh trường Vương Gia Hiền dạy. Thời đó ở bậc tiểu học, môn ngữ văn được đặc biệt coi trọng trong hệ thống giáo dục nhân văn. Bài văn đầu tiên gồm năm câu: “Mèo chuyên rình bắt chuột, chó ngoan ngoãn trông nhà, mỗi con có việc riêng, kẻ không nghề không ngỗng, thật chẳng bằng chó mèo.” Đại ý là trên thế giới này, mỗi một sinh linh được sinh ra đều có chức trách và nhiệm vụ riêng. Nếu một người bỏ bê công việc, không chuyên tâm vào chức trách của mình thì ngay cả đến loài vật cũng không bằng. Tôi không biết mỗi lần Vương Gia Hiền giảng đoạn văn này cho lũ trẻ nghe, trong lòng anh ta sẽ nghĩ thế nào.

Cậu con trai của vị phu nhân sĩ quan kia ngồi trên lớp mà tâm hồn cứ để mãi đâu, không tập trung nghe giảng. Cả lớp có 17 người, chỉ có mình cậu không thuộc năm câu này. Vương Gia Hiền hỏi xem có chuyện gì, nhưng cậu bé cúi đầu không nói. Sau đó Vương Gia Hiền gặng hỏi mấy lần, cậu bé mới trả lời vì mẹ nó suốt ngày buồn phiền chuyện của cha nên trong lòng không vui.

Vương Gia Hiền chộp ngay lấy thông tin này. Ngay đêm hôm đó, hắn bàn với Tổ Gia xem có thể làm vụ này không. Tổ Gia nói: “Không những có thể làm mà còn phải làm lớn nữa là đằng khác. Việc liên quan đến sự sống chết, chắc chắn giá rất cao.”

Vương Gia Hiền lấy lý do đứa bé kia học hành sa sút, trên lớp thường không chú ý nghe giảng để đến tìm bà phu nhân kia. Người có dáng vẻ khôi ngô, sáng sủa, làm việc gì cũng sẽ thuận lợi, Vương Gia Hiền chính là loại người này. Dáng vẻ nho nhã, phong thái trí thức, ăn nói nhã nhặn lịch sự. Cho nên, ngay từ lần đầu gặp mặt bà phu nhân kia đã trút hết nỗi lòng mình với Vương Gia Hiền.

Vương Gia Hiền nói: “Tướng quân tráng sĩ, chinh chiến mười năm, thân kinh trăm trận, tất ngày khải hoàn. Chồng phu nhân đang chinh chiến nơi sa trường, khiến đám văn nhân hèn mọn như chúng tôi đây thật hổ thẹn.”

Bà phu nhân thở dài nói: “Tiên sinh khiêm tốn rồi. Từ xưa tới nay quan văn chết bởi lời can gián, quan võ chết bởi chiến trận sa trường. Văn chương cũng chính là một thứ vũ khí sắc nhọn giành lấy giang sơn. Tiên sinh dạy học trồng người, cũng là mang lợi ích cho đời sau.”

Vương Gia Hiền không ngờ vị phu nhân này có trình độ cao như vậy. Bình thường chỉ mỗi mình thao thao bất tuyệt, không ngờ hôm nay lại gặp được vị phu nhân khéo ăn khéo nói như vậy.

Vương Gia Hiền cũng thở dài nói: “Chỉ hy vọng phu nhân có thể bình tâm trở lại, chờ tin tốt lành của chồng. Nếu không, tâm trạng của bà sẽ ảnh hưởng nhiều tới cậu nhà. Ngày nào ngồi trên lớp cậu nhà cũng không tập trung chú ý nghe giảng, để lâu, sợ sẽ ảnh hưởng đến việc học hành.”

Vị phu nhân kia gật đầu nói: “Nói thì nói vậy, nhưng ai có thể làm được đây. Chồng tôi sống chết còn chưa biết thế nào, bảo tôi làm sao có thể bình tâm được.”

Vương Gia Hiền nhận thấy cơ hội đã đến, bèn làm vẻ nghiêm túc nói: “Phu nhân có tin vào số mệnh không?”

Vị phu nhân ngây người: “Số mệnh ư? Bây giờ tôi cũng chỉ biết trông chờ vào mệnh trời thôi.”

Vương Gia Hiền bắt đầu xuất chiêu: “Thưa phu nhân, tôi có quen một vị tiền bối tinh thông Kỳ môn Bát quái, bấm độn quẻ rất giỏi, nghe nói đã xem cho rất nhiều quan to trong Chính phủ, có thể đoán biết được chuyện sinh tử, phú quý, chính xác lắm. Hay bà mời ông ấy xem cho…”

Vương Gia Hiền chưa nói hết câu, bà phu nhân vội vàng hỏi: “Có thật không? Liệu có thể mời được ông ấy không?”

Vương Gia Hiền thấy bà ta đã cắn câu. Rõ ràng hắn chẳng đi câu, mà cá lại tự tìm đến móc vào lưỡi.

Vương Gia Hiền nói: “Phu nhân đừng sốt ruột, lão tiên sinh đó là chỗ giao tình với tôi đã lâu, tôi có thể hẹn gặp được. Ông ấy rất bận, nhưng tôi sẽ cố gắng sắp xếp giúp bà.”

Vị phu nhân này mừng như chết đuối với được cọc, vội vàng nói: “Cảm phiền tiên sinh nhanh chóng hẹn giúp tôi, càng nhanh càng tốt, tốn bao nhiêu tiền cũng được.”

Đây mới chính là lời mà A Bảo thích nghe nhất, Vương Gia Hiền nói: “Nhất định rồi, nhất định rồi! Tối nay tôi đến nhà ông ấy xem thế nào. Xin phu nhân cứ yên tâm!”

Vị phu nhân xúc động nói: “Cám ơn tiên sinh! Cám ơn tiên sinh!”

Khi người ta đang trong hoàn cảnh quá đau buồn hoặc vui mừng quá độ, đều sẽ trở nên ngốc nghếch. Huống hồ lại là người phụ nữ thân đơn gối chiếc, chồng chinh chiến nơi xa, sống chết là điều khó nói. Vương Gia Hiền nhanh chóng quay về báo cáo lại với Tổ Gia. Tổ Gia nói: “Bà ta có bao nhiêu gia sản?”

Vương Gia Hiền nói: “Điều này khó có thể biết chính xác được. Nhà mang kiến trúc phương Tây, theo phong cách bài trí đồ đạc trong nhà, đoán chừng đây là nhà của sĩ quan chỉ huy cấp trung đoàn trở lên.”

Tổ Gia nghĩ một lúc rồi nói: “Cứ để bà ta chờ vài hôm đã.”

Ngày hôm sau, Vương Gia Hiền lại đến nhà vị phu nhân kia, hắn nói: “Tối qua tôi đi tìm lão tiên sinh rồi. Gần đây ông ấy rất bận, đáng nhẽ ra phải đi công tác. Nhưng sau khi nghe tôi kể về việc của phu nhân, ông ấy tạm thời hoãn lại, khoảng hai ba hôm nữa có thể gặp được.”

Bà phu nhân nói: “Cám ơn tiên sinh! Cám ơn tiên sinh! Xin càng sớm càng tốt cho!”

Ba ngày sau, ba người gặp nhau tại một tiệm trà.

Tổ Gia cốt cách phi phàm, Vương Gia Hiền phong lưu hào sảng. Vị phu nhân này có nằm mơ cũng không thể nào ngờ được rằng hai bậc quân tử khiêm nhường trước mặt mình đây lại chính là phường lừa đảo chuyên nghiệp. Ngồi trước hai người đàn ông đạo mạo, vị phu nhân có chút ngại ngùng, thu hết can đảm bà mở lời với giọng run rẩy: “Xin làm phiền tiên sinh ạ!”

Tổ Gia nói: “Người học Kinh dịch, tấm lòng từ bi đại lượng, phu nhân không cần quá khách sáo như vậy. Việc của phu nhân, Vương tiên sinh đây đã nói cho ta nghe cả rồi.”

Vị phu nhân nói: “Vậy cảm phiền tiên sinh xem giúp chồng tôi lành dữ thế nào?”

Tổ Gia nói: “Tướng mặt phu nhân, cung Phu thê sắc trạch ảm đạm, cung Quan lộc và cung Mệnh thấp lõm. Thứ lỗi cho ta nói thẳng, chồng bà đang ở vào hoàn cảnh rất nguy ngập.”

Vị phu nhân kia nghe thấy vậy vẻ mặt đờ đẫn hoảng hốt rồi cuống quýt hỏi: “Vậy… vậy có nguy hiểm đến tính mạng không?”

Tổ Gia chậm rãi nói: “Xin phu nhân hãy bình tâm, hãy cho ta biết Bát tự ngày sinh của chồng bà.”

Sau khi nghe bà ta trả lời, Tổ Gia ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Tôi đoán trên trán của chồng phu nhân có một nốt ruồi to, không biết có đúng không?”

“Đúng quá, thưa thầy!” Bà ta cuống quýt trả lời. “Nó nằm lệch về phía bên trái trên trán.”

Tổ Gia lại nói: “Ông ấy mắt to, cằm nhọn.”

“Tiên sinh nói quả rất đúng!” Vị phu nhân trả lời.

Vương Gia Hiền giả bộ kính nể cũng vội vàng nói: “Lão tiên sinh đúng là đạo pháp cao minh. Vãn sinh xin bái phục, bái phục!”

Tổ Gia vẫn nghiêm sắc mặt không hề biểu lộ một chút tình cảm, bấm bấm đốt ngón tay: “Phu nhân cho ta hay Bát tự của phu nhân.”

Vị phu nhân vội vàng nói Bát tự của mình.

Tổ Gia lại bấm đốt ngón tay, trầm ngâm một lúc rồi nói: “À! Được cứu rồi, được cứu rồi.”

Vừa nghe thấy câu “Được cứu rồi”, vị phu phân liền đứng phắt dậy, ánh mắt tràn đầy niềm hy vọng, bà nói: “Tiên sinh vừa nói chồng tôi sẽ được cứu ư?”

Tổ Gia nói: “Bát tự của phu nhân vừa hay có thể hỗ trợ cho phu quân. May mà ông ấy lấy được bà, nếu không thì lần này khó tránh được tai họa.”

Đây gọi là Đả trước Long sau.

Vị phu nhân hỏi lại: “Ý tiên sinh là tôi có mệnh vượng phu sao?”

Tổ Gia nói: “Đúng vậy.”

“Vậy làm thế nào mới có thể hóa giải được tai họa này?” Vị phu nhân hỏi dồn.

Tổ Gia trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói: “Còn phải xem phu nhân có bằng lòng hay không.”

Bà ta ngẩn người không hiểu: “Sao tiên sinh lại nói vậy, đương nhiên tôi bằng lòng rồi. Dù đánh đổi cả mạng sống, tôi cũng bằng lòng.”

Tổ Gia nói: “Phu nhân quả là một người vợ hiền thục. Ông ấy lấy được bà, thật đúng là phúc phận của ông ấy! Hôm trước ta cũng gặp một trường hợp giống với trường hợp của phu nhân, nhưng người phụ nữ đó vừa nghe thấy việc giải hạn phải dùng đến tiền thì nghi ngờ do dự không quyết. Hây da! Ta không biết phải nói thế nào cho phải, rốt cuộc là tiền quan trọng hay phu quân quan trọng đây. Than ôi!”

Vị phu nhân nói: “Tiên sinh yên tâm. Chỉ cần cứu được chồng tôi, phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho tiên sinh tôi cũng bằng lòng. Tôi nào sợ khuynh gia bại sản.”

Nghe bà ta nói vậy, Tổ Gia sa sầm mặt nói: “Phu nhân nói thế là ý làm sao? Sao lại cho tôi tiền? Kẻ hèn này tuy rằng cả đời thanh bần nhưng vẫn hiểu thế nào là hai chữ nhân nghĩa.”

Vị phu nhân vội nói: “Tiên sinh… vừa rồi chẳng phải nói muốn giải hạn thì cần đến tiền sao?”

Tổ Gia tức giận nói: “Phu nhân coi khinh ta quá! Ta nói dùng tiền giải hạn, ý bảo phu nhân bỏ tiền ra lo cho chồng chứ không phải cho ta tiền. Trong mệnh cục phu nhân, Quan tinh bị Tài tinh khắc chế triệt để, chỉ có bỏ tiền ra mới có thể giải cứu được Quan tinh, như thế phu quân bà mới trở về được, cho nên ta bảo bỏ tiền ra là ý như vậy. Nhưng không thể vung tiền tùy tiện được, mà phải dùng để công đức, như vậy vừa đạt được mục đích tiêu tiền, vừa giúp chồng tích đức hành thiện, đúng là nhất cử lưỡng tiện.”

Bà phu nhân liền hỏi dồn: “Làm thế nào mới có thể tích công đức đây?”

Tổ Gia trả lời: “Phu nhân nhìn xem, cây cầu nối liền với Nam Trấn đã bị xuống cấp, hư hỏng nhiều năm. Mỗi ngày người dân đi đi về về bên đó, có lúc còn có lái buôn đánh xe ngựa chạy qua cầu, rất nguy hiểm, nên sớm trùng tu, phu nhân quyên góp một khoản để sửa chữa cây cầu chính là đã giúp chồng giải hạn, hơn nữa lại tạo phúc đức cho người dân. Người xưa có câu, xây cầu sửa đường, công đức vô lượng. Như vậy thật tốt biết bao!”

Không chờ vị phu nhân kia lên tiếng, Vương Gia Hiền đứng dậy trước, cúi gập người trước Tổ Gia, khóe mắt đỏ hoe, làm ra vẻ như mới được thụ giáo đạo lý cao siêu gì đó, hắn nói: “Tiên sinh quả thật là người có tấm lòng từ bi, vãn sinh cảm kích vô cùng!”

Vị phu nhân nói: “Tiên sinh quả thật là người có tấm lòng từ bi! Vậy xin hỏi tiên sinh cần khoảng bao nhiêu tiền?”

Tổ Gia nói: “Việc này quả thực ta cũng không biết, phu nhân thử hỏi lính bảo an địa phương xem sao. Quyên góp tiền cho họ, họ sẽ tự cho người sửa chữa lại cây cầu.”

Vị phu nhân vui mừng nói: “Như vậy sẽ giải được hạn cho chồng tôi đúng không?”

Tổ Gia quả quyết nói: “Chắc chắn giải được! Phải thành tâm, không được làm qua quýt cho xong chuyện.”

Vị phu nhân gật đầu nói: “Nhất định, nhất định rồi! Tiên sinh, tôi đã quấy quả làm mất nhiều thời gian của ngài, tôi… tôi phải trả cho tiên sinh bao nhiêu tiền?”

Tổ Gia lắc đầu: “Phu nhân đang lúc khó khăn, ta chẳng qua chỉ dựa vào chút khả năng giúp phu nhân bớt đi phiền não, vậy mà lại đi lấy tiền khác nào để phu nhân chê cười?”

Vị phu nhân càng cảm thấy bối rối nói: “Vậy tôi phải làm thế nào để tạ ơn tiên sinh đây, ngài đã phải lao tâm khổ tứ vì việc của tôi, tôi…”

Tổ Gia nghe xong phe phẩy tay áo, rồi chỉ tách trà trên bàn nói: “Được hóng gió lành, nhấp chén trà lạt là đã đủ rồi, đủ rồi!” Nói xong liền uống một hơi cạn sạch rồi phẩy tay áo bỏ đi.

Nhìn theo bóng Tổ Gia mãi đằng xa, vị phu nhân thở dài một tiếng: “Thói đời bạc bẽo, lòng người chẳng được như xưa, nào hay hôm nay gặp được vị lão tiên sinh đây mới biết tình người vẫn nồng ấm.”

Vương Gia Hiền hùa theo: “Từ trước tới nay, lão tiên sinh vẫn luôn xem thường đồng tiền, người như vậy trên đời này đâu còn được mấy người.”

Sau đó, vị phu nhân này đã bỏ ra một khoản tiền lớn để tu sửa lại cây cầu, tên lính bảo an đứng ra nhận tiền đó thực chất đã bị Tổ Gia mua chuộc từ trước. Số tiền dùng để tu sửa cầu chỉ là một phần nhỏ, phần còn lại được chia đều cho Tổ Gia và tên lính kia. Còn việc Tổ Gia bói ra được tướng mạo của chồng bà ta, đều nhờ những thông tin do Vương Tổ Hiền thu thập từ trước khi dàn cục, anh ta đã lén quan sát những bức ảnh treo trên tường. Phu nhân đó một lòng lo lắng đến việc an nguy của chồng, nên đâu có biết trò mèo đó.

Tôi rất khâm phục những thủ đoạn, mánh khóe của Tổ Gia, ông đã vận dụng cả Thiên và Long, biến mình trở thành một bậc đại đức trong mắt thiên hạ. Về sau, tôi từng hỏi Tổ Gia: “Ngộ nhỡ chồng bà ta không trở về thì sao?”

Tổ Gia mắng tôi đầu óc bã đậu, ông nói: “Vấn đề không phải là sợ chồng bà ta không về, mà sợ chồng bà ta quay về ấy, chẳng may lão ta về được mới gay. Còn không chẳng có gì phải sợ, một quả phụ không chồng thì có thể làm gì được cậu? Đầu óc bã đậu, không chịu động não!”

Lúc đó tôi mới ngộ ra, vội hỏi: “Nếu chồng bà ta quay về, đến tìm chúng ta gây chuyện, thì phải làm thế nào?”

Tổ Gia nói: “Cứ đi ắt sẽ có đường, việc gì chẳng có cách giải quyết chứ. Làm A Bảo mà cứ sợ bóng sợ gió, chẳng bằng về nhà chăn lợn cho rồi.”

Về sau, Vương Gia Hiền ba lần bảy lượt chạy đến nhà vị phu nhân đó, Tổ Gia thấy có điều gì đó không ổn, nên trong một lần họp Đường khẩu, ông nói: “Tiền đã ôm được về rồi, đừng có đòi ôm thêm thứ khác, tham lam tất sẽ gây ra họa đấy.”

Lời của Tổ Gia dọa cho Vương Gia Hiền sợ toát mồ hôi hột, hắn nói: “Con hiểu, con hiểu rồi.”

Sau này, có lần tôi và Vương Gia Hiền cùng ngồi uống rượu, tán chuyện với nhau. Vương Gia Hiền nói anh ta đã rung động trước vị phu nhân đó. Đang lúc bà ta chới với không có chỗ dựa, nhờ vào khả năng am hiểu tâm lý phụ nữ, cộng thêm tướng mạo và thủ đoạn, không đầy một tháng sau, chắc chắn có thể có được bà ta trong tay. Thực ra, anh ta cũng chẳng muốn tính chuyện lâu dài, chỉ muốn được ngủ với bà ta một đêm, rồi rút êm.

Anh ta nói đó là một phụ nữ trí thức, đàng hoàng đứng đắn, am hiểu thơ ca, chính là mẫu người anh ta thích. Tôi hỏi: “Anh thường xuyên qua lại chốn lầu xanh, vậy mà vẫn có nhã hứng và khẩu vị tao nhã đến thế sao?” Anh ta trả lời rằng: “Các cô gái lầu xanh dù có xinh đẹp nhường nào cũng chỉ là cái bị thịt, qua tay đủ hạng đàn ông. Sao có thể so sánh với người phụ nữ con nhà gia giáo được?”

Cuối cùng Vương Gia Hiền cũng uống đến độ say khướt, luôn miệng lảm nhảm: “Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ, tương tư bất tương kiến, đồng ẩm Tương giang thủy …” Rồi sau đó mê man ngủ thiếp đi.

Tôi biết, Vương Gia Hiền là người có tâm theo đuổi mục tiêu rất lớn, có tài nhưng chưa gặp thời, cuối cùng bất đắc chí phải đem tài năng thi triển trong hàng ngũ A Bảo, hẳn anh ta rất đau lòng. Kỳ thực, A Bảo nào cũng vậy, chỉ biết sống tạm sống bợ, mượn rượu giải sầu, chơi bời trăng hoa cho qua ngày. Sau những cuộc vui, họ cũng cảm thấy thương thay cho mình, thấy rõ một tương lai không lối thoát. Ai chẳng muốn sống một cuộc sống đàng hoàng, lấy vợ sinh con, sống yên ổn cho đến tuổi già, con trai con gái đề huề, được vậy sẽ hạnh phúc biết bao. Nhưng các A Bảo làm gì có được thứ hạnh phúc xa xỉ đó, họ sống say sưa trong mộng mị bởi lòng tham muốn vật chất, nó đã đục khoét thân thể, đục khoét tâm hồn, vẻ hào nhoáng bề ngoài mãi mãi không thể che giấu được đôi tay đã nhúng chàm và sự tự ti trong lòng. Đêm đến, A Bảo cũng thường hay nghĩ, nhớ đến bản thân mình khi còn trong sạch, tự chất vấn mình rằng nếu ta không đi theo con đường này thì có lẽ đã trở thành một con người khác…

Hôm nay, Vương Gia Hiền phong độ ngời ngời, kinh luân một bụng cuối cùng cũng đã ngoi lên đến vị trí Bá đầu. Kể từ đó, mọi người đều gọi anh ta là Thất gia.

ĐỆ NHẤT ÁM SÁT TRUNG QUỐC

Từ tháng 9 năm 1948, cuộc chiến tranh giải phóng bước vào giai đoạn quyết chiến mang tầm vóc chiến lược, đến đầu năm 1949, chiến dịch Bình Tân kết thúc, quân chủ lực Quốc dân Đảng cơ bản bị tiêu tan, hầu hết các vùng từ sông Trường Giang đổ về phía Bắc đều đã được giải phóng. Chưởng môn Tuyết Manh Thảo là Tiền Diệu Lâm bị dồn vào thế chân tường, cuối cùng đành phải từ bỏ địa vị Đại Sư bá, đến cậy nhờ Tổ Gia.

Nhưng, một núi không thể có hai hổ, giống như Tống Giang và Tiều Cái ở Lương Sơn Bạc, cuối cùng cũng phải có một người cầm đầu. Mặc dù Tiền Diệu Lâm cam tâm tình nguyện cúi đầu xưng thần, nguyện làm một Bá đầu dưới tay Tổ Gia, nhưng bảy vị Bá đầu dưới tay Tổ Gia đâu thể để lão ta làm vậy. So về tuổi tác, Tiền Diệu Lâm còn lớn tuổi hơn cả Tổ Gia. Lão ta nham hiểm gian xảo, từng có tà tâm bất chính với Giang Phi Yến – Trưởng môn nhân Nam phái. Nếu không nhờ có Tổ Gia ra mặt điều đình, e rằng đã xảy ra một trận huyết chiến giữa hai Đường khẩu.

Nghe Nhị Bá đầu nói, Giang Phi Yến lớn hơn Tổ Gia một tuổi, Tổ Gia tôn trọng bà ấy nên gọi là Yến tỷ. Khi Kiều Ngũ Muội chết, bọn Hắc bang trong vùng đến phá rối, Tổ Gia dẫn theo các anh em đích thân đến dàn xếp. Sau khi Tiền Diệu Lâm nương nhờ Tổ Gia, Giang Phi Yến đã gửi riêng cho ông một bức thư, nhắc nhở Tổ Gia phải cẩn thận đề phòng con người này.

Vì thế, mọi người luôn cảnh giác trước sự xuất hiện của Tiền Diệu Lâm. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Tổ Gia.

Không khí trong Đường khẩu có phần gượng gạo, nhìn bề ngoài có vẻ như vẫn giữ được hòa khí, nhưng thực tế nguy cơ trùng trùng. Đặc biệt sau khi Vương Gia Hiền lên làm Thất Bá đầu, Nhị Bá đầu luôn cảm thấy khó chịu. Mối quan hệ với Tam Bá đầu ngày càng căng thẳng hơn, cộng thêm việc đột nhiên trong Đường khẩu xuất hiện thêm lão Tiền Diệu Lâm này nữa. Mặc dù hắn nói muốn làm một Bá đầu dưới tay Tổ Gia, nhưng Tổ Gia không thể làm vậy. Tiền gia vẫn là Tiền gia, Đại Sư bá vẫn là Đại Sư bá. Đợi qua thời gian này, khi điều kiện cho phép, Tổ Gia sẽ lại giúp ông ta lập một Đường khẩu khác. Như vậy, Đường khẩu vô duyên vô cớ lại có thêm một Đại Sư bá, mỗi khi họp Đường khẩu, Tiền Diệu Lâm luôn ngồi bên cạnh Tổ Gia, thỉnh thoảng Tổ Gia còn nghe theo ý kiến của lão ta, khiến các Bá đầu đều cảm thấy chướng mắt.

Khoảng thời gian đó, mỗi lần họp Đường hội, Tổ Gia thường bảo tôi ở lại pha trà cho ông. Không một ai bận tâm đến chuyện này, họ đều biết tôi vừa đần vừa ngốc, nên chẳng ai đề phòng.

Tổ Gia rất am hiểu trà đạo, mỗi lần thưởng trà, chỉ cần một khác biệt nhỏ là ông nhận ra ngay. Có lần, khi pha trà tôi hơi phân tâm một chút, sau khi nhấp một ngụm, ông nói: “Đại Đầu, lần này con để tâm đi đâu vậy?”

Tôi cảm thấy Tổ Gia là người vô cùng tinh tế, chỉ cần nhấp một ngụm trà ông cũng có thể nhận ra được tâm của người pha trà lúc đó đang tĩnh hay phân tâm. Khoảng thời gian đó, lần nào chúng tôi cũng uống trà đến tận khuya, ông không ngủ được, nên thường hay uống trà, tôi thấy rõ một điều rằng ông đang trăn trở vấn đề gì đó.

Có lần, Tổ Gia và tôi đàm luận đôi chút về việc của Đường khẩu. Thực ra tôi có nói cái gì cũng không ảnh hưởng đến ai cả, mọi người đều biết tôi ngốc nghếch, chẳng biết giở trò ma mãnh. Nếu đổi lại là người khác, ngày nào cũng trò chuyện với Tổ Gia đến tận khuya, chắc chắn khó tránh khỏi bị mọi người sinh nghi, ít nhất cũng sẽ sinh lòng đố kỵ. Bởi vậy, ngốc cũng có cái hay của ngốc, một tên ngốc không đòi hỏi tham vọng, chẳng phải bận lòng bất cứ điều gì. Ngốc, đôi khi cũng là một bức bình phong bảo vệ cho bản thân mình.

Một tối, Tổ Gia hỏi tôi: “Con thấy tình hình Đường khẩu hiện nay thế nào?”

Tôi không hiểu ý Tổ Gia, ấp úng không dám nói.

Tổ Gia nói: “Đại Đầu, cứ nói đi! Chuyện hai chúng ta nói, chỉ có ta và con biết.”

Được Tổ Gia mở lời, tôi thu hết can đảm nói: “Tổ Gia, có vài chuyện con không hiểu, không biết tại sao sư phụ lại làm như vậy?”

Tổ Gia mỉm cười, nói: “Nói tiếp đi.”

Tôi quay sang nhìn ông, run run nói: “Ví dụ như sư phụ không nên cho Tiền gia ở lại, càng chẳng cần để cho ông ta ngồi ngang hàng khi họp Đường hội. Mặc dù đều là anh em, nhưng dù sao cũng không phải người trong cùng một Đường khẩu, để ông ta biết hết những việc lớn nhỏ của Đường khẩu thì không hay cho lắm. Ngoài ra, sư phụ cũng không nên để cho Vương Gia Hiền lên làm Thất gia nhanh như vậy. Vì Tiên Nhân Thủ vừa mới chết, Nhị gia vẫn còn rất đau lòng, làm như vậy sẽ gây nên mối bất hòa trong nội bộ Đường khẩu…”

Nói xong, tôi không dám ngẩng đầu lên, sợ nói gì đó mạo phạm sẽ khiến Tổ Gia tức giận.

Tổ Gia cười ha hả, nói: “Đại Đầu, nếu như con là ta, con mong các anh em trong Đường khẩu đoàn kết một lòng, hay mong họ có bức tường ngăn cách?”

Tôi đáp: “Đương nhiên là đoàn kết một lòng rồi. Mọi người cùng chung sức chung lòng, như vậy mới làm tốt mọi việc được.”

Tổ Gia lắc lắc đầu, cười gượng, nói: “Đúng vậy! Chung sức chung lòng, đúng là làm được việc, nhưng cũng dễ làm hỏng việc.”

Lúc đó, tôi không hiểu được câu Tổ Gia nói có ý gì, mãi sau này xảy ra việc bốn Bá đầu liên thủ hưởng hương tôi mới ngộ ra được chân lý trong đó. May mà chỉ có bốn vị Bá đầu tạo phản. Nếu như cả bảy vị Bá đầu cùng tạo phản thì Tổ Gia coi như xong đời. Lúc đó, tôi chợt nhớ đến cuốn Thiên Gia Đấu của Tiểu Nhân Thư mà tôi từng đọc khi còn nhỏ, trong đó có câu: “Tự cổ thần tử bất đấu, Hoàng đế yên năng tọa an ổn ?” Tổ Gia quả rất sáng suốt!

Tổ Gia không trả lời tôi về vấn đề liên quan đến Tiền Diệu Lâm, xem ra khi đó vẫn chưa phải lúc.

Trong thời gian đó, Lục Bá đầu Phong Tử Thủ cũng rất ít khi đi ra ngoài, luôn ở bên cạnh Tổ Gia như hình với bóng. Người trong Đường khẩu đều biết công việc chủ yếu của Phong Tử thủ là phụ trách khâu liên lạc với người dẫn mối và giới Hắc đạo. Nếu anh ta không đi ra ngoài, cứ rình phục ở Đường khẩu, điều này chứng tỏ trong nội bộ Đường khẩu đang có vấn đề rồi.

Phong Tử Thủ vốn là người trong Phủ Đầu bang của Vương Á Tiều. Từ nhỏ, anh ta đã nghe quen tai, nhìn quen mắt bao nhiêu chuyện trong giang hồ, nên rất can đảm, nghĩa hiệp, luôn giúp đỡ người khác, khí tiết chính trực, nghiêm nghị. Phải khó khăn lắm Tổ Gia mới thu nạp được anh ta về dưới trướng của mình. Việc này cần phải kể bắt đầu từ ông cụ Trương Đan Thành.

Khi Trương Đan Thành chết, Vương Á Tiều đến chia buồn, đem theo một món tiền phúng viếng khá lớn. Người tinh ý thoạt nhìn biết ngay Cửu gia đến để chống lưng cho Tổ Gia. Trước khi Trương Đan Thành chết, ông ta đã dốc hết tâm sức dạy bảo Tổ Gia, hơn nữa còn căn dặn cả Chu Chấn Long, Đồ Nhất Minh phải hết lòng phò tá. Nhưng giang hồ hiểm ác, khi đó Tổ Gia cũng chỉ là một chàng trai hơn 20 tuổi, muốn chèo lái một Đường khẩu, không những phải trấn giữ được nội bộ, mà đối với bên ngoài càng cần phải giữ được mối quan hệ bền vững với cả hai giới Hắc-Bạch. Bởi vậy, Trương Đan Thành mấy lần viết thư cho Vương Á Tiều, nhờ ông ta dìu dắt Tổ Gia.

Ở Trung Quốc, muốn biết một kẻ có máu mặt hay không chỉ cần nhìn vào mối quan hệ của người đó, muốn biết người chống lưng lớn cỡ nào thì cứ việc trông vào đám cưới hay đám ma xem có những nhân vật như thế nào xuất hiện. Vương Á Tiều không những đích thân đến, mà còn mang theo cả đống tiền. Người trong giới chỉ thoạt nhìn là hiểu ngay đôi ba phần.

Đương nhiên Tổ Gia hiểu rõ việc này. Sau khi Trương Đan Thành chết, năm nào Tổ Gia cũng đến thăm Vương Á Tiều. Ông từng nói với các anh em trong Đường khẩu không biết bao nhiêu lần rằng: “Cửu gia (chỉ Vương Á Tiều) đúng là một vị anh hùng. Cứ trong mười người có được một, hai người như Cửu gia thì đất nước Trung Quốc không thể bị diệt vong.”

Năm 1935, Tổ Gia đến thăm Vương Á Tiều, cũng là lần đầu tiên gặp mặt Phong Tử Thủ. Khi đó, Phong Tử Thủ mới 14 tuổi. Lúc đó anh ta vẫn chưa được gọi là Phong Tử Thủ, Vương Á Tiều gọi anh ta là Tiểu Lục Tử. Tổ Gia thấy cậu nhóc này tuy nhỏ tuổi, nhưng ánh mắt lạnh lùng nghiêm nghị, dáng điệu cử chỉ toát lên vẻ điềm tĩnh và cương nghị, thoạt trông đã biết ngay là con nhà võ.

Mấy năm nay, Tổ Gia luôn mang một nỗi bận tâm lớn trong lòng. Đó chính là việc cứ mỗi lần người của Đường khẩu và bọn người “trong giới” xảy ra va chạm, ông luôn phải đích thân đến nhờ cậy Vương Á Tiều giúp đỡ, vô cùng phiền phức, nên bản thân ông cảm thấy rất ái ngại. Ông muốn cuỗm lấy một người từ chỗ Vương Á Tiều về với mình, như vậy mối quan hệ giữa hai Đường khẩu sẽ càng thêm gắn bó hơn. Một khi cần dàn xếp việc gì, Tổ Gia không cần đích thân ra mặt nữa, chỉ cần phái người này đi là được. Vì đây là việc của chung của cả Đường khẩu, thân đã là người của Đường khẩu thì không thể đùn đẩy trách nhiệm sang cho người khác được.

Nhưng vấn đề ở chỗ, nếu trực tiếp đòi cuỗm mất kẻ tâm phúc của Vương Á Tiều, chưa cần nói Vương Á Tiều có đồng ý hay không, mà bản thân Tổ Gia cũng chẳng dám mở miệng. Mặt khác kẻ tâm phúc đã thề chết đi theo Vương Á Tiều kia cũng sẽ không chịu đi theo Tổ Gia, hoặc có thể hắn còn chẳng coi Tổ Gia ra gì. Cho nên, Tổ Gia muốn tìm một người thích hợp giúp mình trong chuyện này. Còn về tiêu chuẩn tìm người, cũng không cần phải tìm người có máu mặt và từng trải, nhưng phải thuộc diện có nền móng chắc, tức chỉ cần nhắc đến bậc cha chú của anh ta là đã có thể khiến cho người trong giang hồ nể sợ vài phần, như vậy là đã đạt được mục đích ban đầu. Người này được trưởng thành trong mạng lưới quan hệ của bậc cha chú, bất cứ lúc nào cũng tận dụng được những mối quan hệ đó. Sau này lớp người đi trước rửa tay chậu vàng, lui về ở ẩn, anh ta có thể kế tục, dốc hết tài năng, đắc dụng cho mình.

Hôm đó, Tổ Gia vừa gặp đã nhắm ngay Tiểu Lục Tử, ông ướm lời hỏi Vương Á Tiều: “Cửu gia, cậu này là…”

Vương Á Tiều cười nói: “Đây là cháu ruột một người huynh đệ của ta, nó tuy còn nhỏ nhưng khá đấy. Luyện võ từ khi còn để chỏm, tinh thông Tông Hạc quyền, Bát Quái, Hồng Quyền và cũng rất giỏi Khinh Công.”

Tổ Gia ngẫm nghĩ một lát, rồi không kìm nén được liền chắp tay nói với Vương Á Tiều: “Cửu gia, tiểu đệ có một việc muốn thỉnh cầu, không biết có nên nói ra không?”

Vương Á Tiều cười: “Hiền đệ muốn nói đến Tiểu Lục Tử?”

Tổ Gia không khỏi ngỡ ngàng, nhưng cũng nói thẳng vào vấn đề không dám giấu giếm: “Người quân tử không nên hớt tay trên người khác, nhưng Đường khẩu gần đây nhân tài như lá mùa thu, tiểu đệ đúng là đang khao khát cầu người hiền tài. Đệ thấy vị tiểu huynh đệ này đúng là một nhân tài có một không hai, lại là thế hệ sau trong Đường khẩu của Cửu gia, tất được Cửu gia dạy bảo đến nơi đến chốn, trọng tình trọng nghĩa, tiểu đệ có muốn cũng chẳng được.”

Vương Á Tiều cười ha hả nói: “Giữa huynh đệ chúng ta, đệ không cần phải dùng cách Long với ta, cứ nói thẳng là muốn có nó là được.”

Với Vương Á Tiều, quả thật Tổ Gia vẫn còn hơi non nớt, lại bị nói trúng tâm nguyện như vậy, mặt ông đỏ bừng. Nhưng được lời như cởi tấm lòng, ông đi thẳng vào mục đích: “Dám xin Cửu gia đồng ý!”

Vương Á Tiều nói: “Ta thì không có ý kiến gì, vấn đề là bản thân nó kia, thằng bé này khá cứng đầu đấy.” Nói đoạn, liền vẫy Tiểu Lục Tử lại hỏi: “Tiểu Lục Tử à! Vị Đại Sư bá đây muốn thu nạp ngươi, ngươi có muốn đi theo ông ấy không?”

Tổ Gia khi đó mới hơn 30 tuổi, Tiểu Lục Tử liếc nhìn Tổ Gia một cái nói: “Ông có bản lĩnh gì?”

Tổ Gia cười cười, vặn lại: “Vậy ngươi có bản lĩnh gì?”

Tiểu Lục Tử nhếch mép, nói: “Tôi có thể tránh được đường đạn”. Cậu ta nói là có thể tránh được đạn, thực ra không phải là cậu ta có thể chạy nhanh hơn cả viên đạn. Ý cậu ta chỉ là cậu ta nhanh nhẹn, nhạy bén, có thể đoán được chính xác đường đạn mà người ta sẽ bắn nên trước khi đối phương bóp cò, cậu ta đã vận sức dưới chân, chạy thoát trước một bước. Có một lần, cậu ta theo thúc thúc đi hành thích, kết quả là bị đối phương bắn lại, thằng nhóc này cứ nhảy lên nhảy xuống thoăn thoắt như con thoi, không viên đạn nào bắn trúng được nó.

Tổ Gia nhìn quanh, thấy trên bàn có một đĩa dương mai liền cầm lấy vài quả, mỉm cười nói: “Như thế này đi, nếu cậu có thể né được mấy quả dương mai này thì ta sẽ không thu nhận cậu nữa. Nếu cậu không né được thì hãy ngoan ngoãn đi theo ta.”

Tiểu Lục Tử vừa nghe thấy thế đã tức đỏ mắt, thầm nghĩ đúng là khoác lác, liền xắn ống quần, vén tay áo lên, hùng hổ nói: “Nào chúng ta bắt đầu đi!”

Vương Á Tiều ngồi bên cạnh cứ lim dim mắt cười.

Tổ Gia nói: “Chờ chút đã.”

Tiểu Lục Tử sững lại: “Sao, ông sợ rồi à?” Tổ Gia đếm mấy quả dương mai trong tay, nói: “Tất cả có năm quả, ta ra thêm một điều kiện, nếu trong số năm quả này mà có một quả không trúng thì coi như ta thua!”

Tiểu Lục Tử nghe thấy tức đến nỗi hơi phì cả ra qua lỗ mũi: “Đừng lải nhải nữa! Nào! Chơi!”

Tổ Gia vừa dùng chiêu khích tướng cho cậu ta mất bình tĩnh, sẽ khiến chân tay loạng quạng, cậu ta càng nóng vội, Tổ Gia càng điềm tĩnh, bình thản. Tổ Gia nắm chắc mấy quả dương mai, lắc lắc trước ngực, tay vận lực, đột nhiên cánh tay vung lên một cái, ông hét lớn một tiếng: “Đỡ này!”

Tiểu Lục Tử cứ nhìn chằm chằm xem Tổ Gia ra chiêu gì, vừa thấy cánh tay ông vung lên, cậu ta liền cúi giật đầu xuống, rồi lập tức xoay người một vòng, tránh sang một bên, rồi lập tức đứng thẳng người trở lại thì phát hiện ra chẳng có cái gì đánh trúng người mình. Vừa định sung sướng hét lên thì Tổ Gia vẩy tay một cái, một quả dương mai bay vù ra, trúng ngay trán. Lực đủ mạnh khiến quả dương mai đỏ choét kia nát bét dính trên trán Tiểu Lục Tử. Thì ra vừa rồi Tổ Gia chỉ phát hư chiêu chứ không hề ném quả nào cả, đợi sau khi Tiểu Lục Tử xoay người né tránh rồi đứng yên, ông mới ném thật.

Tiểu Lục Tử gào lên: “Ông chơi xấu! Vừa rồi ông không…”

Chưa nói dứt lời, Tổ Gia lại hất tay một cái: “Lại trúng rồi!” Lần này còn nhanh hơn, mạnh hơn nữa. Vù một cái, một quả trúng ngay họng Tiểu Lục Tử. Cổ họng như có vật gì chẹn ngang khiến Tiểu Lục Tử phát ra một tiếng “ự”, đến nói cũng không nói được.

Tổ Gia lại vẩy tay lần nữa, lần này cả ba quả dương mai cùng bay ra một lúc, Mặc dù Tiểu Lục Tử ra sức né tránh, nhưng một quả vẫn trúng ngay giữa ngực, còn hai quả kia trúng vào bụng.

Vương Á Tiều cười ha hả, nói với Tổ Gia: “Không ngờ lão đệ còn có bản lĩnh này, nếu ta không lầm thì đây chính là tuyệt kỹ của Đồ Nhất Minh!”

Tổ Gia chắp tay: “Đã khiến Cửu gia chê cười rồi. Đây chính là tuyệt kỹ do lão tiền bối Nhất Minh truyền thụ.”

Lúc này, Tiểu Lục Tử đứng bên cạnh hậm hực, tay xoa xoa cổ họng, trông có vẻ vẫn còn chưa hạ hỏa.

Vương Á Tiều mỉm cười nói với Tiểu Lục Tử: “Còn nhìn cái gì, ngươi thua rồi. Mấy quả dương mai vừa rồi, quả nào cũng bắn trúng vào chỗ hiểm, nếu ông ấy dùng phi đao hoặc đinh sắt thì nhà ngươi xong đời rồi.”

Tiểu Lục Tử nhếch miệng nói: “Ông ta chơi xấu.”

Vương Á Tiều nói: “Giang hồ giết nhau, chưa bao giờ xuất chiêu theo một quy tắc, luật lệ nào cả, Thắng làm vua thua làm giặc, thua thì phải nhận thua. Đến Đường khẩu của Tổ Gia, ngươi phải ngoan ngoãn nghe lời ông ấy, giữ cho tròn bốn chữ nhân, nghĩa, lễ, tín, không được thiếu sót một chữ. Nếu không, ta sẽ không tha cho ngươi”. Câu này là nói Tiểu Lục Tử, nhưng cũng là dành cho Tổ Gia. Vương Á Tiều tuy lên núi làm cướp, nhưng một đời chính trực lẫm liệt. Bây giờ ông ta giúp đỡ Tổ Gia đấy, nhưng một khi Tổ Gia dám đi chệch đường, chắc chắn ông ta sẽ là người đầu tiên tiêu diệt Tổ Gia.

Tổ Gia nghe thấy thế vội đứng lên hành lễ: “Tạ ơn Cửu gia!”

Tiểu Lục Tử nói: “Tôi sẽ theo ông, nhưng với một điều kiện.”

Vương Á Tiều sầm mặt nói: “Quân tử nhất ngôn, đừng có quanh co, lấp liếm.”

Tổ Gia vội lên tiếng: “Không sao cả, không sao. Cậu cứ nói xem điều kiện gì nào?”

Tiểu Lục Tử nói: “Ông phải dậy tôi trò ném này.”

Tổ Gia và Vương Á Tiều nhìn nhau cười ha hả. Thế là Tiểu Lục Tử đi theo Tổ Gia như vậy đó. Về sau, ở Đường khẩu, anh ta được Tổ Gia chuyên tâm dạy bảo. Cuối cùng anh ta cũng có thể một mình đảm đương một trọng trách. Nhờ giỏi quyền thuật, lại giỏi khinh công, Tiểu Lục Tử chuyên đảm nhiệm việc qua lại với giới Hắc đạo và thường được điều đi nghiên cứu địa hình trước khi dàn cục. Anh ta như một con ngựa không biết mệt mỏi, cho nên Tổ Gia gọi anh ta bằng cái tên rất hay là Phong Tử Thủ.

Phong Tử Thủ đến Đường khẩu được hai năm thì Vương Á Tiều bị ám sát. Phong Tử Thủ đau buồn khóc suốt cả đêm, muốn lập tức ám sát lại kẻ đó để báo thù, nhưng bị Tổ Gia cương quyết ngăn cản! Tổ Gia nói: “Ngươi đấu được với người của Cục Quân thống ư? Cửu gia là vua ám sát bậc nhất ở Trung Quốc, cuối cùng vẫn chết trong tay chúng, ngươi muốn đâm đầu vào chỗ chết sao? Cửu gia đã giao ngươi cho ta, với tư cách là Đại Sư bá, ta không cho phép ngươi đi.”

Tuy ngoài miệng nói cứng như vậy, nhưng trong lòng Tổ Gia rất buồn. Với ông, người mà ông khâm phục nhất trong cuộc đời chính là Cửu gia Vương Á Tiều, hơn nữa, Cửu gia còn nhiều lần đưa tay cứu vớt, trợ giúp khi Tổ Gia gặp nguy. Tổ Gia cũng muốn báo thù, nhưng đối thủ lần này lại là Quân thống nên ông không dám hành động khinh xuất, lỗ mãng.

Đúng lúc này, xuất hiện một vị Đại Sư bá khác ở vùng đất Giang Hoài, hai vị Đại Sư bá này đã cùng bắt tay dàn cục. Đó là lần dàn cục mỹ nhân nhuốm màu sinh ly tử biệt.

TÊN ĐẶC VỤ QUÂN THỐNG MÊ TÍN

Vị Đại Sư bá nọ đến tìm Tổ Gia tên thật là Trương Ân Thụy, đồng thời cũng là một nhân sĩ yêu nước. Ngay từ khi còn trẻ ông ta đã ra nhập “Đội tự vệ vũ trang công nhân”. Sau “Chính biến 12 tháng 4” , ông ta thề sẽ noi gương vua ám sát hàng đầu Thượng Hải Vương Á Tiều, quyết không đội trời chung với bọn Quốc dân Đảng. Đội quân của ông ta không lớn, chuyên thòng cổ bọn người ác, người xấu, phần lớn số tiền kiếm được đều giao hết lại cho Vương Á Tiều dùng làm kinh phí hoạt động cho các sát thủ. Trước đây, khi Tổ Gia đến thăm Vương Á Tiều, Trương Ân Thụy thường lấy thân phận là người đồng đạo nhiều lần cùng ra tiếp đón, mối quan hệ giữa ông ta với Tổ Gia luôn tốt đẹp. Sau khi Vương Á Tiều chết, ông ta “gác kiếm” một thời gian, đợi tình hình lắng xuống, rồi vội vàng tìm đến Tổ Gia bàn chuyện.

Vương Á Tiều là một nhân sĩ yêu nước nổi tiếng thời kỳ cận đại. Ông từng lên kế hoạch ám sát các yếu nhân gây chấn động trong ngoài Trung Quốc như: hành thích Tưởng, giết Tống, hạ Uông. Sau vụ đánh bom giết chết viên Đại tướng Lục quân Yoshinori Shirakawa của Nhật Bản thì tiếng tăm càng lừng lẫy hơn. Mỗi lần nhắc đến ông, Tưởng Giới Thạch lại nghiến hàm răng giả kèn kẹt. Một nhân vật lợi hại như vậy cuối cùng lại bị chết bởi tay một người phụ nữ tên là Uyển Quân. Một tay Đới Lạp đã sắp đặt mỹ nhân kế, khiến vua sát thủ một đời kiêu hùng phải xuống thẳng suối vàng.

Tổ Gia biết rõ bản thân Đới Lạp là một kẻ rất mê tín, thường tìm thầy tướng số, nhằm tìm cách bổ khuyết cho tình trạng thiếu Thủy trong mệnh cục của mình. Hắn đã chọn dùng đến mấy chục cái tên mang Ngũ hành Thủy như: Uông Đào, Đồ Thanh Ba, Thẩm Bái Lâm, Hồng Diểu. Hắn phát cuồng lên vì tướng số, nên còn lấy cả những cuốn sách xem tướng, đoán mệnh như Băng giám của Tăng Quốc Phiên, Ma Y tướng pháp của Ma Y đạo nhân để biên soạn thành tài liệu, biến nó thành bài học bắt buộc đối với bọn đặc vụ. Do ảnh hưởng của Đới Lạp, bọn đặc vụ cấp dưới cũng cực kỳ mê tín, dù có việc gì hay không cũng đều đi bái kiến cao nhân, thảo luận về tướng số.

Trương Ân Thụy cũng biết rõ huyền cơ ẩn trong đó, nên nói vụ này rất dễ mà cũng cực kỳ khó dàn cục. Nói dễ là vì bọn đặc vụ của Cục Quân thống đều rất mê tín, dễ dàng tìm được kẽ hở mà đánh thọc vào. Cái khó ở đây là bọn chúng cũng ít nhiều có sự am hiểu về tướng số do ảnh hưởng từ Đới Lạp, trong khi đó phái Giang Tướng lại không phải là thầy tướng số chân chính, mà chỉ là vin vào chiêu bài tướng số để đi lừa người. Cho nên trong quá trình dàn cục, một khi có sai sót về mặt lý luận tướng số sẽ rất dễ khiến cho bọn chúng nghi ngờ. Vấn đề mấu chốt nhất đó là phải dàn cục ở mức độ nào, tức có cần phải dìm chết đối phương hay không. Nhưng muốn dìm chết Đới Lạp e rằng là chuyện quá hoang đường nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Còn hạ sát vài tên đặc vụ quèn thì chỉ tổ gây chuyện lôi thôi, để bọn người Cục Quân thống quay lại vồ mình, lúc đó tai họa tất sẽ rơi xuống đầu phái Giang Tướng.

Sau khi suy xét cẩn thận mọi tình huống, Trương Ân Thụy nói: “Ôm lấy tiền thôi vậy. Có được tiền rồi sẽ mua súng, mua pháo. Ta phải tập hợp đội ngũ, như vậy mới đọ được với lũ này.”

Tổ Gia gật đầu tán thành. Hai người bàn bạc thống nhất đi đến quyết định, vụ này phải dàn từ kỹ viện.

Trước đây, Tổ Gia cũng từng dàn cục dùng mỹ nhân kế, có vụ cài một vài nữ A Bảo vào làm kỹ nữ để câu bọn quan chức cấp cao hay những thương nhân giàu có. Có vụ còn kết hợp phái những tên A Bảo đóng giả làm những nhân vật có tiền có quyền, đến kỹ viện chòng ghẹo những kỹ nữ ruột mà bọn người kia thường qua lại. Cả hai thủ đoạn này đều có chung một mục đích là moi thông tin, chọn thời cơ xuất Thiên.

Vào thời đó, các kỹ viện là đầu mối thông tin của cả xã hội, bao nhiêu tin tức cơ mật đều được truyền đi từ miệng của đám kỹ nữ. Bất kể là đàn ông hay đàn bà, một khi đã lên giường, lửa tình trỗi dậy, đều tự nguyện dốc hết những lời gan ruột ra. Những chuyện bình thường không dám hé răng nửa lời, nhưng một khi đã lên giường rồi thì chẳng có điều gì mà không dám thổ lộ hết.

Chẳng phải đợi lâu, nữ A Bảo mà Trương Ân Thụy cài cắm trong kỹ viện đã bắn tin rằng gần đây có một vài tên quân quan lại thường hay “hạ cố” đến kỹ viện. Lần nào cũng gọi rất nhiều kỹ nữ đến hầu hạ, lại vung tay hào phóng. Hơn nữa chúng còn hay trêu ghẹo các cô gái bằng cách xem tướng tay, tướng mặt, thậm chí còn nói: “Ta chỉ cần nhìn tướng tay là biết cái đó của cô nương bị rách năm nào.”

Tổ Gia đoán chúng rất có thể là bọn đặc vụ của Cục Quân thống, chỉ có người của Cục Quân thống mới quan tâm, hứng thú với đoán mệnh xem tướng. Mà việc chi tiêu của Cục Quân thống lại được các băng nhóm xã hội đen ở Thượng Hải rót tiền, nên bọn chúng tha hồ vung tay quá trán. Đây đúng là một cơ hội tốt để bắt chúng phải “quyên tiền”.

Vì có liên quan đến Vương Á Tiều, Trương Ân Thụy sợ mình có đã có tên trong danh sách đen của Cục Quân thống, nên ông ta không dám tự mình ra tay. Do đó vụ này phải để Tổ Gia đích thân ra mặt.

Theo kế hoạch của Trương Ân Thụy, đầu tiên cho một nữ A Bảo tên là Hoa Nguyệt Dung đến Phụng Minh lầu giả làm kỹ nữ. Nói đến đây, Trương Ân Thụy không khỏi đau lòng. Cô nương có tên Hoa Nguyệt Dung này mới 20 tuổi, nàng chính là quân át chủ bài của Trương Ân Thụy, dung mạo xinh đẹp như hoa. Từ nhỏ gia cảnh bần hàn, gia đình phải bán nàng cho một gánh hát. Khi Trương Ân Thụy đi xem hát kịch, ông ta đã nhắm trúng nàng, chuộc ra, rồi nhanh chóng huấn luyện nàng trở thành nữ A Bảo. Từ đó, Hoa Nguyệt Dung trở thành trợ thủ đắc lực của Trương Ân Thụy. Vốn dĩ Trương Ân Thụy định lấy Hoa Nguyệt Dung, nhưng vì nghĩ đến thân phận Đại Sư bá của mình và sợ mất thể diện với các huynh đệ nên chưa chính thức cưới nàng. Thực ra, mấy huynh đệ dưới trướng của ông đều biết rõ, những khi chỉ có ông và Hoa Nguyệt Dung thì các huynh đệ đều tự lui xuống hết.

Có lần Hoa Nguyệt Dung hỏi Trương Ân Thụy: “Khi nào người sẽ cưới muội? Chúng ta hãy rời khỏi chốn toàn chuyện thi phi này, để sống một cuộc sống yên bình.”

Mỗi lần như vậy, Trương Ân Thụy chỉ biết ôm nàng vào lòng, dịu dàng nói: “Chắc chắn rồi, ngày đó sẽ chẳng còn xa nữa.”

Trương Ân Thụy đã phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều khi quyết định để Hoa Nguyệt Dung ra sân bởi dù gì nàng cũng là người phụ nữ ông yêu thương. Không phải trong Đường khẩu không có nữ A Bảo nào khác, nhưng vì họ đều không có đủ tố chất, kể cả những người đã được cài cắm trong thanh lâu. Có người thân thể nõn nà nhưng đầu óc không nhanh nhạy, có người biết nắm bắt thời cơ hành động nhưng lại xấu xí đến trâu cũng phải hỉ mũi. Chỉ có Hoa Nguyệt Dung tài mạo xinh đẹp, lại xuất thân từ gánh hát, học qua diễn kịch, thuộc nhiều ca từ phong hoa tuyết nguyệt, còn biết hát Côn Khúc , giỏi nắm bắt ý tứ người khác qua sắc mặt và lời nói, thoạt nhìn là đoán biết được tình hình. Muốn đối phó được với bọn đặc vụ Quân thống, chỉ còn cách đưa nàng lên sân khấu.

Giống như những người dưới trướng của Tổ Gia, luận về độ tàn độc, Đại Bá đầu đứng đầu hàng, giết người không chớp mắt; luận về Trát phi, Nhị Bá đầu độc chiếm “trạng nguyên”, việc chui vào quan tài đánh một giấc với người chết chẳng phải là việc gì ghê gớm với ông ta. Nói về tài năng và học vấn, không ai lại được Tam Bá đầu, anh ta am hiểu thiên văn địa lý, âm dương, bát quái, không có thứ gì là không biết. Còn cả Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu, Lục Bá đầu, ai cũng có tuyệt kỹ riêng, nhưng xét về tố chất tổng hợp, thì không có ai bì được với Tổ Gia. Cho nên, lần dàn cục này Tổ Gia phải đích thân ra tay.

Sau khi Hoa Nguyệt Dung vào Phụng Minh lầu thì tối hôm sau có mấy tên đặc vụ đến. Mụ tú bà dẫn các cô gái đứng thành một hàng. Bọn đặc vụ chọn vài người nhưng không hài lòng lắm, sau đó chúng hỏi: “Còn ai khác không?”

Mụ tú bà đeo một nụ cười gian ngoa trên mặt nói: “Trưởng quan, chỗ tôi vừa hay có một cô nương mới đến. Nàng vốn là tiểu thư khuê các, nhưng do gia cảnh sa sút, mới lưu lạc đến chốn thanh lâu này…”

Mụ tú bà còn chưa dứt lời, mấy tên đặc vụ đã nhao nhao lên: “Còn không mau gọi ra đây!”

Mụ tú bà lại cười: “Các vị trưởng quan vội gì chứ, cô nương này đã có lời nhắn nhủ. Trước cửa phòng nàng cho dán một vế đối, ai có thể đối được, nàng ấy mới chịu tiếp, bằng không…”

Một tên đặc vụ bực mình: “Mẹ nó chứ! Một con kỹ nữ lại còn bày trò lắm chuyện. Để ông mày lôi cổ nó ra đây.” Nói xong hắn xách súng định đi lên lầu.

Lúc này, một tên đặc vụ chừng 40 tuổi lên tiếng: “Đứng lại! Không có tố chất gì cả! Năm xưa tướng quân Sái Ngạc và Tiểu Phụng Tiên từng ngâm thơ đối đáp tại chốn thanh lâu, đã trở thành một giai thoại. Đừng có động một cái là giở thói cục cằn thô lỗ. Ngươi có hiểu tố chất là gì không hả? Tú bà, đưa ta đi xem, để ta đối lại nàng ấy.”

Tên này chính là đối tượng mà Tổ Gia nhắm đến hạ thủ sau này, hắn tên là Từ Hoài Cận, Phó Sở trưởng Sở tình báo Quân thống.

Mụ tú bà dẫn Từ Hoài Cận lên tầng hai, đến trước cửa phòng Hoa Nguyệt Dung, hai bên cửa quả đúng có một đôi liễn. Vế trên là: “Âm âm dương dương âm dương bất định phong nguyệt sự.” Còn vế sau chỉ là một tờ giấy trắng, chưa ai đối được.

Từ Hoài Cận trầm tư suy nghĩ một lúc, rồi nói với mụ tú bà: “Mau mang bút mực lại đây.”

Mụ tú bà vội vàng đi lấy bút mực, Từ Hoài Cận xắn tay áo lên, nắn nót viết vế đối lên tờ giấy trắng theo thể chữ Liễu : “Thiện thiện ác ác thiện ác hữu báo giang hồ nhân.”

Mụ tú bà liếc nhìn, vội vàng gọi to vào trong phòng: “Hoa cô nương, một vị trưởng quan đã đối được vế đối rồi”.

Ngay sau đó, cánh cửa được mở ra, Hoa Nguyệt Dung khăn tay che mặt, yểu điệu thướt tha bước ra. Từ Hoài Cận vừa nhìn thấy nàng, tim đã đập rộn lên. Cô nương này quả xinh đẹp vô cùng, da dẻ nõn nà, duyên dáng yêu kiều, ánh nhìn tình tứ, điệu bộ ra chiều ngó nghiêng, bất cứ người đàn ông nào nhìn thấy nàng đều phải rung động
trong lòng.

Hoa Nguyệt Dung nhìn vế đối, rồi kẽ gật đầu, mỉm cười nói: “Mời trưởng quan.”

Từ Hoài Cận cũng nở nụ cười, làm điệu bộ nhún nhường: “Mời cô nương.”

Hoa Nguyệt Dung bước vào, Từ Hoài Cận ném cho mụ tú bà một xấp tiền, nói: “Mau đem rượu và đồ ăn lên đây.” Sau đó xua xua tay bảo mấy tên thủ hạ lui xuống, còn mình thì bước vào trong phòng.

Một lúc sau, người hầu bê lên một chiếc bàn xoay, trên bàn bày một bình rượu Nữ nhi hồng, bốn đĩa thức ăn. Hoa Nguyệt Dung rót một chén rượu cung kính tay nâng ngang mày, Từ Hoài Cận đón lấy chén rượu, rồi nói: “Cảm phiền cô nương. Ta mạo muội xin hỏi cô nương tên gì?”

Hoa Nguyệt Dung trả lời: “Tiểu nữ họ Hoa, tên là Nguyệt Dung.”

Từ Hoài Cận cười nói: “Dung mạo chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn. Quả đúng là người sao tên vậy.”

Hoa Nguyệt Dung hai má ửng hồng e thẹn: “Trưởng quan chê cười rồi. Thủa nhỏ, mọi người trong gia đình thường gọi tiểu nữ là Nguyệt nhi. Dám hỏi quý tính đại danh của trưởng quan là gì?”

Từ Hoài Cận thoáng chút ngạc nhiên, nói: “Ta họ Từ, nàng cứ gọi ta là Từ Sở trưởng. Nguyệt nhi cô nương, khí chất phi phàm thoát tục, duyên cớ gì lại lưu lạc đến chốn…” Chợt nhận ra mình đã lỡ lời, Từ Hoài Cận cố nuốt lại nửa câu sau.

Hoa Nguyệt Dung mỉm cười khẽ nói: “Từ Sở trưởng đâu cần phải quá khách sáo như vậy. Tiểu nữ vốn là người Lâm An, vì gia đình bỗng nhiên gặp cơn biến cố, không còn cách nào khác mới phải đi đến hạ sách này… Giấy rách còn phải giữ lấy lề, tiểu nữ vẫn biết đói cho sạch rách cho thơm, nếu không vì mẫu thân lâm bệnh nặng, không có tiền chữa trị…” Nói đến đây hai hàng nước mắt nóng hổi lăn xuống.

Từ Hoài Cận vội rút khăn tay lau khô nước mắt cho Nguyệt Dung. Hoa Nguyệt Dung nhân đó liền ngả vào lòng hắn.

Từ Hoài Cận nhẹ nhàng nói: “Đừng lo lắng! Hãy kể ta nghe nào!”

Hoa Nguyệt Dung tựa vào ngực Từ Hoài Cận, nói: “Nhà tiểu nữ vốn cũng thuộc hàng khá giả ở Lâm An. Cha là thương nhân bán trà, về sau bị kẻ thù hãm hại, gia cảnh bắt đầu sa sút. Hai anh trai đi lính và đều chết trên chiến trường. Đầu năm nay mẫu thân bị cảm phong hàn, bệnh tình càng ngày càng nặng, rồi chuyển thành lao phổi, ngày nào cũng ho ra máu. Thấy mẫu thân bị bệnh tật hành hạ như vậy, tim tiểu nữ quặn thắt. Chỉ cần kiếm được tiền trị bệnh, để mẫu thân được ăn một bữa thật ngon. Dù khổ cực thế nào, tiểu nữ cũng cam lòng.” Nói xong, nước mắt lại trào ra.

Từ Hoài Cận ôm riết lấy Hoa Nguyệt Dung trong lòng, nói: “Nàng đừng sợ, đừng sợ. Ta và nàng tình cờ gặp gỡ, âu cũng là duyên phận. Ta sẽ giúp nàng.”

Hoa Nguyệt Dung đứng dậy, lại rót cho Từ Hoài Cận một chén rượu đầy, mình cũng một chén đầy, rồi nâng chén rượu nói: “Rượu gặp tri kỷ ngàn chén ít, lời không ăn ý nửa câu thừa. Tiểu nữ không phải hạng hư hỏng. Dù thân đã vào tới chốn thanh lâu, nhưng cũng không phải là người phóng túng, tùy tiện nên mới viết vế đối trước cửa, chí ít phải là người đọc sách, hiểu lễ nghĩa, tiểu nữ mới tiếp. Trước đó có mấy kẻ phàm phu đến đối đáp lung tung, chỉ đến khi gặp được người như trưởng quan ngài đây tới, tiểu nữ mới được thỏa lòng mong đợi. Sở trưởng Từ văn võ song toàn, tiểu nữ vô cùng ngưỡng mộ, xin kính ngài một chén.”

Từ Hoài Cận mỉm cười, kéo Hoa Nguyệt Dung vào lòng, vui vẻ uống cạn chén rượu. Sau đó, Hoa Nguyệt Dung lại rót đầy mấy chén nữa, hai người đều uống cạn.

Sau vài tuần rượu, hai người tựa vào nhau trong yên lặng. Ánh trăng buông lơi trên cành liễu, một làn gió nhẹ ùa vào qua cửa sổ, mang theo hương ngọc lan dịu ngọt thơm ngát, cuốn đi mọi âm mưu và tội ác nơi trần tục, tình ấy cảnh này lung linh tựa như trong một bức họa, lắng đọng men say tình ái vừa ấm áp lại nồng nàn.

Tiếng mõ điểm canh ba len lỏi trong không gian tĩnh mịch, lúc này Từ Hoài Cận bắt đầu nhẹ nhàng cởi bỏ chiếc áo trên người Hoa Nguyệt Dung. Hoa Nguyệt Dung e lệ che chiếc yếm thắm, nói: “Sở trưởng Từ, có thể thong thả chờ tiểu nữ đôi hôm không?”

Từ Hoài Cận không hiểu, hỏi: “Tại sao?”

Hoa Nguyệt Dung tỏ vẻ rầu rĩ nói: “Từ nhỏ tiểu nữ thân thể yếu ớt nhiều bệnh, mẫu thân từng mời một thầy tướng số đến xem Bát tự cho tiểu nữ, nói rằng phải qua tuổi 20 mới được… mới được… nói đến chuyện phòng the. Nếu không sẽ không sống được quá 22 tuổi, còn hai ngày nữa mới đến sinh nhật tiểu nữ, vì thế, xin Sở trưởng ngài…”

Từ Hoài Cận sững sờ: “Ồ thì ra là vậy. Nói như thế, Nguyệt nhi nàng vẫn giữ được thân trong trắng ư?”

Hoa Nguyệt Dung e thẹn, hai má ửng hồng khẽ gật gật đầu.

Từ Hoài Cận cười dịu dàng: “Khà khà, cổ nhân có câu ‘động nhược thoát thố, tĩnh như xử tử’ , chẳng trách Nguyệt nhi cô nương từng cử chỉ hành động đều toát ra vẻ thanh tao đài các, hàm súc thoát tục. Ta không vội, không vội.”

Hoa Nguyệt Dung vội vàng nghiêng mình chắp tay hành lễ biểu thị ngưỡng mộ người quân tử, nói: “Cảm ơn Sở trưởng, tiểu nữ từ nay sẽ không còn phải lo lắng không có người tri kỷ sánh bước trên con đường dài phía trước nữa. Tiểu nữ mệnh khổ, như cánh bèo trôi lênh đênh giữa biển người không biết phiêu bạt về đâu, nào ngờ nay lại gặp được bậc quân tử có tình có nghĩa như Sở trưởng ngài ở nơi gió trăng này.”

Từ Hoài Cận vui vẻ cười, đột nhiên như thể nhớ ra điều gì chợt hỏi: “Vừa rồi nàng nói tới một thầy tướng số…”

Hoa Nguyệt Dung đáp: “Vâng, ông ấy rất lợi hại, có mối giao tình đã lâu với gia phụ, ông ta từng đoán tới tuổi trung niên cha tiểu nữ sẽ gặp phải chuyện ưu phiền liên quan tới tính mệnh, nhưng cha tiểu nữ lại không bận tâm đến chuyện này. Tính ông vốn cứng rắn, ngang ngạnh, thường nói sống chết có số, phú quý tại trời. Vào năm xảy ra chuyện, thầy tướng số kia còn đến tận nhà bảo cách giải hạn, nhưng cha tiểu nữ phần vì bận làm ăn, phần vì không nghe theo. Kết quả vào mùa đông năm đó, cha bị kẻ xấu hãm hại, từ đó gia cảnh sa sút. Còn nữa, ông thầy tướng số ấy còn đoán ra hạn của hai anh của tiểu nữ nữa… Những việc này về sau đều ứng nghiệm, cho nên tiểu nữ mới phải ghi nhớ thời gian động phòng. Tiểu nữ chẳng phải tiếc mạng sống của mình, chỉ vì còn có mẫu thân đang bệnh nặng, không thể bỏ mặc. Cho dù thế nào, tiểu nữ cũng phải chăm sóc mẫu thân cho tới lúc cưỡi hạc quy tiên… Nhưng gần đây bệnh tình của mẫu thân càng ngày càng nặng thêm, tiểu nữ không bận tâm đến những việc này nữa, lòng nghĩ chết thì chết, nhưng trước khi chết có thể đem thức ăn ngon dâng cho mẹ, có chết cũng cam lòng…”

Không đợi Hoa Nguyệt Dung nói hết câu, Từ Hoài Cận liền ngắt lời nàng: “Đừng nói những lời ngốc nghếch đó, mọi việc đều có cách giải quyết…” Trầm ngâm một lát rồi quay sang hỏi: “Nàng nói vị cao nhân tướng số đó tên gì, là người ở đâu?”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Người ta gọi ông ấy là Thiết Bản tiên sinh, nghe nói ông ấy là truyền nhân của Thiết Bốc Tử Đạo Nhân gì đó…”

Từ Hoài Cận cướp lời: “Chính là Thiết Bản tiên sinh mà báo chí đã nói phải không?”

Hoa Nguyệt Dung cười nói: “Tiểu nữ nào phải là quan hay nhân sĩ gì, làm sao biết đọc báo, nên không biết người Sở trưởng nói là ai.”

Từ Hoài Cận nói: “Chắc chắn là đúng, chắc chắn đúng. Nàng có thể tìm gặp được ông ấy không?”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Ông ấy vân du bốn biển, hành tung không biết thế nào, việc này khó nói trước được. Nhưng hàng năm cứ vào ngày giỗ của phụ thân tiểu nữ, ông ấy đều viếng thăm.”

Từ Hoài Cận nói: “Ngày giỗ của lệnh tôn là khi nào?”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Mùng 7 tháng này.”

Từ Hoài Cận gật gật đầu như thể đang tự nói một mình: “Trời giúp ta rồi.”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Trưởng quan nói gì vậy?”

Từ Hoài Cận nói: “Không có gì, không có gì, lần sau dẫn ta đi thăm mẫu thân nàng nhé.”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Không dám làm phiền Sở trưởng…”

Từ Hoài Cận nói: “Cần chứ, cần chứ. Nhất định phải đến thăm một lần.” Đột nhiên ông ta lại hỏi: “Hiện giờ hai mẹ con nàng ở đâu?”

Hoa Nguyệt Dung trả lời: “Ở số nhà 28 ngõ Đại Chùy Tử, mẹ con tiểu nữ mới chuyển đến hồi đầu tháng.”

Từ Hoài Cận nói: “Được, lần sau nàng dẫn ta đến.”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Tạ ơn Sở trưởng quan tâm. Đêm nay không thể hầu hạ Sở trưởng, tiểu nữ sẽ hát hầu Sở trưởng một bài Côn Khúc nhé!” Nói xong lại rót cho Từ Hoài Cận một chén rượu.

Từ Hoài Cận cười nói: “Được.”

Hoa Nguyệt Dung cầm lấy cây đàn ba dây, hát một đoạn trong bài Điểm giáng thần . Lời hát bằng trắc trầm bổng, ngân nga thánh thót khiến Từ Hoài Cận vỗ tay tán thưởng mãi, hát đến đoạn tình yêu đôi lứa, Từ Hoài Cận không thể làm chủ được mình, lại gần Hoa Nguyệt Dung, ôm chặt nàng vào lòng.

Lúc này, có một tên đặc vụ cấp dưới gõ cửa, có vẻ như hắn lên để nhắc Từ Hoài Cận đã đến giờ phải về. Từ Hoài Cận đi đến trước mặt tên đặc vụ kia, nói nhỏ vài câu, sau đó tên đặc vụ kia cúi đầu chào rồi lui xuống.

Hoa Nguyệt Dung nói: “Nếu Sở trưởng có việc thì cứ đi lo giải quyết đi, tiểu nữ gặp được Sở trưởng… trong lòng… đã xác định là người của Sở trưởng. Sở trưởng cứ đi lo việc công, Nguyệt nhi ở đây đợi ngài. Sở trưởng một ngày không đến, Nguyệt nhi chờ một ngày. Sở trưởng một năm không đến, Nguyệt nhi chờ một năm. Sở trưởng kiếp này không đến, Nguyệt nhi sẽ đợi đến kiếp sau.”

Từ Hoài Cận ngây người nhìn Hoa Nguyệt Dung. Nàng cũng nhìn ông ta bằng ánh nhìn si mê đắm đuối. Từ Hoài Cận nhẹ nhàng ôm Hoa Nguyệt Dung và lòng, định nói điều gì đó nhưng lại thôi.

Tiếng gà gáy vang lên, phương Đông đã ửng hồng, mặt trời đã sắp hiện ra, Từ Hoài Cận chỉnh lại quần áo, nói với Hoa Nguyệt Dung: “Nguyệt nhi cô nương, hai ngày sau Từ mỗ sẽ tới gặp nàng.”

NỮ A BẢO PHẢI LÒNG ĐẶC VỤ QUÂN THỐNG

Sau khi Từ Hoài Cận đi khỏi, Hoa Nguyệt Dung sắp xếp lại dòng tâm tư, rồi gọi một cô nương dưới lầu lên, nói nhỏ vài câu, sau đó tự mình thay y phục khác, vội chạy về ngõ Đại Chùy Tử. Chừng nửa canh giờ sau đến được trước cửa căn nhà số 28, khẽ gõ cửa, gọi: “Mẹ ơi?”

Không lâu sau, một vị lão phu nhân đi ra, trên trán quấn một chiếc vải trắng, trông điệu bộ giống hệt như đang bị bệnh nặng, tươi cười nói: “Con gái về rồi ư?” Sau đó, bắt đầu ho lấy ho để.

Không đợi Hoa Nguyệt Dung mở lời, vị lão phu nhân đưa mắt ra hiệu cho nàng, mắt đảo khắp bên ngoài một lượt, nói to: “Con gái à, vừa rồi có hai người tốt đến nhà chúng ta. Họ nói là bạn của con, hỏi thăm bệnh tình của mẹ, còn để lại một ít tiền nữa, thật đúng là người tốt.”

Hoa Nguyệt Dung trong lòng vô cùng hồi hộp, vừa dìu lão phu nhân vào nhà, vừa hỏi: “Mẹ, người ta tốt thế nào? Tên họ là gì?”

Lão phu nhân nói: “Mẹ có hỏi, nhưng họ không để lại tên họ, chỉ nói là bạn của con, bảo rằng sau này còn tới thăm ta nữa.”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Mẹ à, lần sau họ đến, mẹ nhớ hỏi lại tên họ người ta nhé. Con cũng muốn biết là ai.”

Vị lão phu nhân, nói: “Phải rồi, phải rồi, hai mẹ con ta gặp được quý nhân rồi, phụ thân con mất sớm, hai anh trai thì cũng đã đi…”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Mẹ, mẹ nhắc đến những chuyện này làm gì, có con gái ở đây với mẹ, rồi mọi việc sẽ ổn thôi.”

Hai người bước vào nhà, đóng cửa lại, vị lão phu nhân gỡ ngay tấm vải trắng buộc trên đầu xuống. Hoa Nguyệt Dung phá lên cười trước bí mật của lão phu nhân. Lão phu nhân kia liền giơ tay che lên miệng ra dấu “suỵt” một tiếng, tỏ ý bảo Hoa Nguyệt Dung phải biết dè chừng.

Hai mẹ con họ lại chuyện trò đôi ba câu trong nhà, rồi Hoa Nguyệt Dung bắt đầu ra sân nhặt củi khô nấu cơm, khói bếp bay lên qua ống khói, lượn lờ trên mái nhà rồi tản ra giữa tầng không.

Kỳ thực, vào lúc này, một tên đặc vụ là quân của Từ Hoài Cận vẫn đứng nấp sau nhà theo dõi, nghe trộm. Tối hôm qua, khi Hoa Nguyệt Dung kể về thân thế của mình cho Từ Hoài Cận nghe, hắn muốn biết rõ về Hoa Nguyệt Dung hơn. Khi trời gần sáng, tên đặc vụ kia đi lên lầu, Từ Hoài Cận nói nhỏ vài câu với hắn, chính là bảo hắn ngay lập tức chạy đến số nhà 28 ngõ Đại Chùy Tử để xem rốt cuộc có đúng như lời Hoa Nguyệt Dung đã nói hay không.

Tổ Gia và Trương Ân Thụy là hai người quá sành sỏi, nên khi dàn cục họ đã sớm nghĩ đến điều này. Họ đã sắp xếp cho một nữ A Bảo lớn tuổi hóa trang thành một bà lão bị bệnh nặng đang nằm trên chiếc giường trong sân ngôi nhà số 28, sẵn sàng nghênh đón bọn đặc vụ bất cứ lúc nào.

Quả nhiên, trời vừa hửng sáng, bà A Bảo già kia đã nghe thấy tiếng gõ cửa. Bà khoác áo giả bộ như đang bệnh ra mở cửa, vừa thấy hai người lạ mặt, trong lòng đã có sự chuẩn bị sẵn, vừa mời bọn họ vào nhà, vừa than thở gia cảnh của mình hệt như những gì Hoa Nguyệt Dung nói. Đã vậy trong lúc trả lời, thỉnh thoảng bà còn dùng khăn tay che miệng ho khù khụ như thể muốn nôn cả phổi ra ngoài. Ho một trận kịch liệt xong, mở chiếc khăn tay ra, một bọng máu để sẵn trong khăn tay từ trước bị vỡ ra, trong căn phòng tối tăm, bọn đặc vụ tưởng là bà ta nôn ra máu thật.

Mấy tên đặc vụ kia nói chuyện với bà lão một lúc, không phát hiện ra khẽ hở nào, liền để lại ít tiền theo như lời dặn dò của Từ Hoài Cận, sau đó lẩn ra sau nhà, nằm im nghe ngóng. Mấy tên đặc vụ này quả đúng là xảo quyệt, bọn chúng muốn xem xem tình huống sẽ thế nào khi Hoa Nguyệt Dung trở về. Kết quả Hoa Nguyệt Dung và bà lão đã diễn tuồng, giả làm hai mẹ con y như thật, cho nên hai tên đặc vụ mới yên tâm quay về báo cáo.

Sở dĩ Hoa Nguyệt Dung cảm thấy kinh ngạc khi vừa về đến cổng là vì nàng ta không ngờ bọn đặc vụ của Từ Hoài Cận lại có thể đến nhanh chân như vậy. Thậm chí nàng còn không phát hiện ra Từ Hoài Cận đã sai bọn đặc vụ đi lúc nào. Đối với một A Bảo mà nói, đây là một sai lầm chí mạng, các A Bảo không được phép bỏ lỡ bất kỳ một ánh nhìn, một động thái nào của đối thủ. Trong lòng Hoa Nguyệt Dung chợt cảm thấy mơ mơ màng màng, nàng buột miệng: “Mình sao lại…?”

Bà lão hỏi: “Cái gì làm sao kia?”

Hoa Nguyệt Dung sững người: “À, không có gì.”

Đêm hôm đó, Hoa Nguyệt Dung lại quay trở về Phụng Minh lầu. Tình hình bên này, Hoa Nguyệt Dung đã bảo tay chân báo lại cho Trương Ân Thụy và Tổ Gia. Nàng cứ theo kế hoạch mà diễn, phải nói thế nào, làm thế nào, xuất chiêu thế nào, thu lưới thế nào, tất cả mọi công đoạn đoạn đều hiển hiện trong đầu. Cũng không có vị khách làng chơi nào dám chạy lên lầu tìm nàng, vì trước khi rời đi, Từ Hoài Cận đã ném cho mụ tú bà một mớ tiền khá lớn, và nói với bà ta rằng: “Ta đã bao Hoa cô nương.”

Đêm khuya, Hoa Nguyệt Dung cũng thấy mệt, uống mấy hớp trà, rồi thay y phục nằm xuống giường, muốn ngủ mà không sao chợp mắt được, đành nằm thẫn thờ im lặng. Hình bóng Từ Hoài Cận cứ quay cuồng trước mắt nàng. Quả thực, Từ Hoài Cận trông rất anh tuấn, là học sinh xuất sắc của trường quân sự Hoàng Phố, dáng người cao lớn, rắn rỏi, cử chỉ nho nhã. Hoa Nguyệt Dung miên man nghĩ về ông ta, bất chợt nàng ta nhoẻn miệng cười, nhưng đột nhiên nụ cười trên môi tắt ngấm, nàng nhăn mặt lại. Nàng ta biết rõ, mình chỉ là một A Bảo, là một kẻ lừa gạt chính cống. Từ Hoài Cận đang là con gà béo, là đối thủ của nàng ta. Tất cả những gì đang diễn ra chỉ là trò lừa đảo, khi khúc hát cạn lời thì người nghe cũng sẽ phải đứng dậy ra về.

Tối hôm sau, ăn tối xong, nàng ngồi trong khuê phòng, vừa trang điểm xong thì nghe thấy tiếng mụ tú bà: “Ôi, trưởng quan đến rồi, Hoa cô nương đang đợi ngài ở trên lầu! Mau vào đi, mau vào đi!”

Ngay sau đó là những tiếng kêu lộp cộp của chiếc ủng quân sự vọng lại từ bậc cầu thang dẫn lên lầu, Hoa Nguyệt Dung vội ra mở cửa, Từ Hoài Cận sải bước dài đi tới. Hai người họ nhìn nhau như thể đã ba thu mới gặp lại, Từ Hoài Cận mỉm cười nói: “Nguyệt nhi cô nương.”

Hoa Nguyệt Dung cũng lên tiếng: “Sở trưởng!” bằng giọng chứa chan cảm xúc.

Hoa Nguyệt Dung mời Từ Hoài Cận bước vào phòng, bỗng nhiên Từ Hoài Cận giơ tay lên nói: “Đợi đã, Nguyệt nhi cô nương.” Nói xong, ông ta quay người lại, cởi găng tay ra, chìa tay nói với tên đặc vụ đang đứng sau lưng: “Đưa đây.”

Tên đặc vụ đưa lên một bó hoa tươi đẹp, Từ Hoài Cận hai tay cầm bó hoa đưa lên trước mặt Hoa Nguyệt Dung, nhìn nàng bằng ánh mắt vô cùng âu yếm: “Nguyệt nhi cô nương sinh nhật vui vẻ, mãi mãi xinh đẹp như hoa.”

Hoa Nguyệt Dung sững sờ trước cảnh tượng này. Sau Cách mạng Tân Hợi, mặc dù Tây học đã dần thâm nhập vào đời sống của người dân Trung Quốc, nhưng cử chỉ lãng mạn rất Tây này, ngoài hai tài tử lớn là Chí Ma và Bi Hồng từng thể hiện ra, rất hiếm có một vị đặc vụ Quân thống nào từng làm được như vậy. Hoa Nguyệt Dung từ nhỏ cuộc sống nghèo khổ, phải vào làm việc trong gánh hát, chưa từng trải qua cảnh tượng lãng mạn thế này bao giờ.

Ánh mắt Hoa Nguyệt Dung long lanh hạnh phúc, không nói lên lời. Nàng rụt rè nhận bó hoa tươi thắm, khuôn mặt ửng hồng, miệng khẽ nói: “Cám ơn Sở trưởng!”

Từ Hoài Cận quay lại nói với tên đặc vụ và mụ tú bà: “Lui hết cả đi, không có lệnh của ta, không ai được quấy rầy!”

Sau khi vào phòng, Hoa Nguyệt Dung sà vào lòng Từ Hoài Cận, hai người ghì chặt lấy nhau. Từ Hoài Cận lại lấy từ trong túi áo ra một chiếc hộp nhỏ, bên trong đựng một chiếc vòng ngọc có chạm hoa văn rồng phượng. Ông ta nói: “Đây là chiếc vòng mà mẫu thân đã đưa cho ta trước khi đến học tại trường quân sự Hoàng Phố. Bà nói với ta rằng phải đem tặng cho con dâu tương lai của bà. Bây giờ ta đã tìm được rồi.”

Hoa Nguyệt Dung nhìn Từ Hoài Cận bằng ánh nhìn tha thiết: “Sở trưởng.”

Từ Hoài Cận nhẹ nhàng ôm lấy Hoa Nguyệt Dung vào lòng, nói: “Ta đã phái người đến thăm mẹ nàng rồi. Sau này ta sẽ cùng nàng chăm sóc bà. Từ nay nàng không cần phải lo lắng về cuộc sống nữa.”

Hoa Nguyệt Dung úp mặt vào vai Từ Hoài Cận mà khóc. Vào lúc này đây, hơn bao giờ hết, nàng ước mình là một kỹ nữ thật sự.

Theo sắp xếp của Đại Sư bá Trương Ân Thụy, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, không cần phải dâng hiến thân mình, nàng vốn có thể theo đúng kế hoạch đã vạch ra, lấy cớ chưa hết đoạn tang cha ba năm, để trốn tránh được mọi việc xảy ra trong tối nay. Nhưng nàng ta đã thay đổi kế hoạch, chủ động trút bỏ xiêm y…

Sau này, khi Hoa Nguyệt Dung chết, Trương Ân Thụy phái người thu dọn lại những di vật của nàng, đã phát hiện ra một tờ giấy dưới gối. Đó là bức thư do chính tay Hoa Nguyệt Dung viết, cũng có thể xem là lời thổ lộ tự đáy lòng của nàng:

Vĩnh biệt tướng quân:

Phận thiếp thấp hèn, vốn nghĩ sống cho hết kiếp này, nào ngờ ông trời thương xót cho thiếp được gặp tướng quân. Tướng quân anh tuấn, oai hùng, đối với thiếp tình sâu nghĩa nặng. Thiếp gặp được tướng quân, sao lại không vui mừng? Thiếp phiêu bạt 20 năm trời, chịu bao cực khổ, không cha không mẹ, không nơi nương tựa, từ khi gặp được tướng quân, mới cảm nhận được thế nào là tình nhi nữ.

Thiếp vốn là phường lừa đảo, đã lún sâu vào bao tội ác, ngay từ lúc gặp tướng quân, đã lừa gạt tướng quân, khiến tướng quân rơi vào bẫy, còn thiếp sống trong mộng ảo. Ân tình của tướng quân với thiếp sâu nặng ngần nào thì trái tim thiếp đau đớn ngần ấy, tướng quân càng lún sâu, tim thiếp càng vỡ vụn. Nay, tướng quân vẫn còn ở trong bẫy lừa, thiếp đã tỉnh cơn mộng, nhưng chỉ mong mình mãi chìm đắm trong giấc mộng.

Thiếp không oán trời, không than thân trách phận, đời này được tướng quân đem lòng thương yêu là thiếp đã mãn nguyện rồi. Xưa nay, có giấc mộng uyên ương nào mà không nhuốm màu ly biệt, kẻ đa tình nào chẳng đau đớn trước cảnh biệt ly. Thiếp sắp phải đi rồi, Tướng quân ở nơi trần thế, thiếp về mãi tận dưới cõi âm, từ nay số trời đã định, âm dương cách biệt đôi đường. Đời người thoảng qua như cơn gió, thịt da chỉ như nắm bùn đen. Lúc trước, biết bao chuyện thiếp không thể làm theo ý mình, chết rồi hồn sẽ lạc về đâu? Thiếp một lòng yêu thương tướng quân, mãi mãi không quên ân tình của tướng quân.

Vạn lời thiếp nói ra chưa hết, ngàn ý thiếp gửi lại chưa tròn, tướng quân xin hãy bảo trọng. Kiếp này thiếp chẳng thể cùng tướng quân đi hết con đường, xin tướng quân bảo trọng, vĩnh biệt tướng quân.

Thiếp Nguyệt Dung
Giờ Sửu, ngày Bính Thìn

Nàng gọi ông ta là tướng quân, trong ý tứ lời nói rõ ràng rất đỗi chân tình. Thực đúng là Rèm che ánh nến chập chờn, mây mưa một tối hận thù tiêu tan. Mối tình Quân thống, A Bảo, thật thật giả giả đã không còn ranh giới cách ngăn.

Nàng cũng tự biết, bức thư này sẽ mãi mãi không bao giờ có thể gửi đi được, nàng đã chết từ lâu lắm rồi, chết trong cuộc tình của chính mình.

THẦY TƯỚNG SỐ DÀN CỤC MỸ NHÂN

Theo như kế hoạch, Hoa Nguyệt Dung sẽ phải giới thiệu Từ Hoài Cận với Tổ Gia vào “ngày giỗ cha” mình. Sau mấy ngày gần gũi, Từ Hoài Cận và Hoa Nguyệt Dung đã nói với nhau đủ thứ chuyện. Hoa Nguyệt Dung đã khéo léo “qua mặt” Từ Hoài Cận về việc mình vẫn còn là cô gái trinh nguyên.

Trước khi giới thiệu, Hoa Nguyệt Dung lại một lần nữa căn dặn Từ Hoài Cận: “Tuyệt đối không được nói mình là quan quân, vì mẹ con thiếp chỉ là những người dân thấp cổ bé họng, không thể có cơ hội tiếp xúc với quan chức trong Cục Quân thống. Nếu để vị tiên sinh kia biết tiểu nữ là gái lầu xanh, chuyện đến tai mẫu thân, chắc chắn sẽ khiến mẫu thân đau lòng chết mất. Tiểu nữ vẫn giấu mẫu thân là đang làm công cho một tiệm cơm, vì phải rửa bát đũa nên phải làm việc cả ban đêm.”

Từ Hoài Cận gật gật đầu, nói: “Ta sẽ nói mình là một thương nhân, là một người bạn của cha nàng trước đây vậy.”

Đây kỳ thực chỉ là một chiêu trò giương Đông kích Tây mà thôi. Để cho Từ Hoài Cận giấu đi thân phận của mình, rồi lại để Tổ Gia vạch trần thân phận của hắn ta, như vậy mới chứng tỏ Tổ Gia đạo hạnh cao thâm đến mức nào. Trông thì có vẻ Hoa Nguyệt Dung đưa ra kế sách này là để che đậy cho thân phận của mình, nhưng kỳ thực lại là chiêu nhằm giảm bớt sự đề phòng, cảnh giác của Từ Hoài Cận.

Từ Hoài Cận lấy thân phận là một thương nhân buôn trà, mặc một chiếc áo dài thay cho bộ quân phục đến gặp Tổ Gia tại một tửu lầu.

Vừa ngồi xuống, ông ta nói rất khiêm tốn: “Từ lâu đã ngưỡng mộ danh tiếng của tiên sinh, nay mới được gặp mặt. Tiên sinh quả đúng là có phong thái tiên phong đạo cốt, danh bất hư truyền.”

Tổ Gia cười khà khà: “Các hạ quá khen rồi, tôi cũng chỉ là dân đen bình thường, chỉ cốt sao được sống cho qua ngày đoạn tháng trong cái thời buổi loạn lạc này, đâu thể nói đến đại danh gì.”

Từ Hoài Cận cười nói: “Tiên sinh quá khiêm tốn rồi, hôm nay may có Hoa cô nương đây giới thiệu, nếu không chẳng biết bao giờ mới có duyên gặp được tiên sinh.” Nói đoạn, ông ta đưa cho Tổ Gia một tờ giấy: “Đây là Bát tự của bỉ nhân, phiền tiên sinh xem giúp cho.”

Tổ Gia đón lấy tờ giấy, xem lướt qua, trầm ngâm một lát rồi đột nhiên phán: “Các hạ, có hiểu Tam cương Ngũ thường là gì không?”

Câu hỏi đột ngột khiến cho Từ Hoài Cận bối rối, lắp bắp nói: “Tiên sinh… tiên sinh nói vậy là ý gì?”

Tổ Gia nói: “Tam cương là quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương. Ngũ thường là chỉ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các hạ không có chút tín nghĩa nào cả, vậy thì chúng ta còn có gì để nói nữa đây?”

Từ Hoài Cận giật mình: “Sao tiên sinh lại nói vậy?”

Tổ Gia cười: “Nguyệt nhi nói với ta các hạ là thương nhân buôn bán trà, ta xem Bát tự của các hạ, hoàn toàn không phải là phường lái buôn, người đi buôn thì chẳng thể có Bát tự thế này.”

Từ Hoài Cận bắt đầu toát mồ hôi, hỏi: “Việc này… Vậy với Bát tự của tôi, tiên sinh cho rằng tôi làm nghề gì?”

Tổ Gia nói: “Bát tự của các hạ vô cùng khác thường, Tam kỳ củng chiếu , Quan tinh, Sát tinh hợp thân, ra trận thì làm tướng quân, vào triều làm tể tướng là Bát tự của người làm quan.”

Chiêu này chính là trong Thiên có Đả, Thiên Long song hành, một chiêu xuất ra hiệu quả đắc kỳ.

Từ Hoài Cận không sao che giấu được niềm sung sướng trong lòng, buột miệng hỏi: “Xin hỏi tiên sinh, tôi có thể giữ đến chức vụ nào? Hiện giờ đang là thời khắc mấu chốt để được thăng chức, không biết liệu có thể đánh bại được đối thủ hay không, xin tiên sinh chỉ cho.”

Tổ Gia cười: “Một thương nhân buôn trà, làm sao mà có cơ hội thăng quan tiến chức kia chứ?”

Từ Hoài Cận thẹn đỏ mặt: “Mong tiên sinh bỏ quá cho. Quả thực bỉ nhân không phải thương nhân buôn trà, mà giữ một chức vụ trong chính phủ. Mấy ngày trước may gặp được Hoa cô nương tại chốn thanh lâu, nàng ấy cũng vì cuộc sống mà phải sa chân vào nơi đó. Tôi và nàng vừa gặp mặt đã biết là có duyên phận, nên mới có cơ hội gặp được tiên sinh, nàng ấy sợ tiên sinh biết chuyện của mình và sẽ cho mẫu thân nàng hay, nên mới phải dùng đến hạ sách này thôi.”

Tổ Gia chỉ đành lắc đầu: “Biến cố của nhà họ Hoa, ta sớm đã dự liệu trước. Năm xưa ta đã nhắc nhở cha của cô nương ấy, nhưng ông ấy không nghe…”

Từ Hoài Cận cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, nói: “Hầy dà! Mỗi người đều có số mệnh, tiên sinh không cần phải tự trách mình. Kỳ thực, bỉ nhân có biết đôi chút về Tứ trụ và Tướng thuật, không biết tiên sinh có cao kiến gì về thuật số Trung Hoa.”

Tổ Gia vừa nghe, hiểu ngay ẩn ý trong câu nói của ông ta, vì thế ông cười nói: “Chu dịch lấy trời đất làm chuẩn mực, nó bao trùm mọi quy luật trong trời đất. Học Chu dịch phải giữ cho lý trí sáng suốt, nếu lý trí u tối, càng học nhiều, càng rối rắm.”

Từ Hoài Cận nói: “Tiên sinh nói rất đúng. Bỉ nhân có vài vấn đề không được rõ cho lắm, mặc dù đã suy ngẫm nhiều ngày mà vẫn chưa thể lý giải được. Mong tiên sinh tận tình chỉ giáo cho!”

Tổ Gia nói: “Xin cứ nói!”

Từ Hoài Cận nói: “Trước tiên là vấn đề xem tướng mặt. Sách xưa thường nói ‘Thiên đình đầy đặn, Địa các tròn trịa ’ là tướng có phúc. Nhưng tôi thấy bao kẻ tầm thường ngoài đường, có Thiên đình và Địa các tròn đầy, vậy tại sao vẫn chỉ là đám dân đen hạ tiện? Lại như trong sách xem tướng thường nói, muốn xem tài vận thì phải quan sát mũi, nếu sống mũi cao, đầy đặn, sắc trạch sáng nhuận, là mệnh đại phú quý, tôi vẫn thường thấy đám phu xe bán sức lao động ngoài đầu đường, trên bến tàu, nhiều kẻ cũng có tướng mũi to đẹp, nhưng vẫn phải làm việc quần quật mà vẫn không đủ ăn, như vậy thì phải giải thích thế nào đây?”

Tổ Gia cười khà khà đáp: “Các hạ lầm rồi! Nếu cứ có lối suy nghĩ như vậy, e rằng… sau này sẽ làm trò cười cho thiên hạ. Thuật xem tướng chung quy được gói gọn trong phép Ngũ hành. Ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thiên đình Địa các, Tam đình Ngũ nhạc chẳng qua chỉ là cách miêu tả rất hình tượng các vị trí bộ vị Ngũ hành. Ngũ hành quý ở sự cân bằng, chỉ xem một bộ vị thì không thể luận được cát hung họa phúc, phải kết hợp xem cả ngũ quan thì mới đúng đắn. Chu Nguyên Chương mặt ngựa môi lừa, nếu chỉ nhìn vào từng bộ phận thì dữ tợn, xấu xí không ai sánh bằng, nhưng kết hợp xem cả ngũ quan, thì đúng là tàng phong tụ khí, Ngũ hành thông thuận, hài hòa, vì thế mới có thể thống nhất nghiệp bá, lên ngôi cửu ngũ chí tôn, đứng đầu thiên hạ. Tương tự, nếu chỉ xem tướng mũi của một người, mà không kết hợp phân tích các bộ vị khác, sẽ không thể nào phán đoán chính xác tài vận cát hung. Huống hồ, trên mũi còn chia thành bốn bộ phận từ trên xuống dưới gọi là Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu. Nếu chỉ thấy mũi cao, đầy đặn, mà không phân biệt cong thẳng, sắc trạch, thì sao có thể luận đoán chính xác? Lúc này, người học Dịch quý ở sự hài hòa. Trương Lương đã biết cắt bỏ những thứ đáng bỏ đi trong cuốn Binh pháp Thái Công để hoàn chỉnh cuốn Kỳ môn Độn giáp. Từ Tử Bình đã bổ sung thêm cái còn thiếu trong Tam trụ của Lý Hư Trung tạo nên Tứ trụ, Thiệu Ung đã phá vỡ trật tự Bát quái mà phát triển thành Hoàng cực kinh thế, người học Dịch không am hiểu về quy luật âm dương, không hiểu biết về quy luật biện chứng, chỉ là kẻ tầm thường mà thôi.”

Lúc này Tổ Gia đang Đả, ông áp dụng chiêu thức cấp Đả mạn Thiên, Tổ Gia đã nắm bắt ngay được những chỗ còn thiếu sót trong mớ kiến thức về Kinh dịch của ông ta, nên cứ việc thao thao bất tuyệt, lý giải cặn kẽ, thấu triệt. Đả cho Từ Hoài Cận phải phục sát đất.

Đây chính là bản lĩnh thật sự của Tổ Gia. A Bảo gồm thành hai loại người, một loại hoàn toàn chỉ đi lừa đảo, một loại có chút bản lĩnh thực sự. Những A Bảo không học Chu Dịch đến nơi đến chốn, cách cái chết chỉ một “bước chân”. Bản lĩnh thật sự học được ở đâu? Một là do các vị nguyên lão của Đường khẩu truyền lại từ đời này sang đời khác, hai là học hỏi cao nhân trong nhân gian. Tổ Gia từ khi còn nhỏ đã được kế thừa một chút kiến thức về Chu Dịch từ Trương Đan Thành, về sau lại thường xuyên lui tới học hỏi các vị hiền tài, từ đó dần thông hiểu đạo lý, thu được không ít kiến thức.

Tổ Gia từng dạy chúng tôi: Chu Dịch là nền móng sinh ra mọi thuật tướng số, điều then chốt là ở sự biến hóa.

Giống như thuật xem tướng mặt, xem tay, người bình thường chỉ biết “người này có cái mũi rất đẹp, vừa cao vừa thẳng”, “người kia có đôi mắt phượng”, “người này tay đẹp, nuột nà”, mà không biết rằng thuật xem tướng là phải xem Ngũ hành hài hòa, hình thần kiêm bị hay không.

Ngũ hành hài hòa là thế nào? Tổ Gia từng giải thích cho chúng tôi nghe: Các cơ quan trong cơ thể người đều tương xứng với Ngũ hành. Mắt thuộc Hỏa. Tai, miệng thuộc Thủy, lưỡng quyền (gò má) thuộc Kim, mũi thuộc Thổ, còn đầu, lông mày và tóc đều thuộc Mộc. Trong Ngũ hành có tương sinh tương khắc, bất cứ một bộ phận nào quá to hay bé quá đều có thể làm mất cân bằng Ngũ hành trong cơ thể. Ví dụ, nếu mũi quá to, lưỡng quyền thấp bé, cằm lại nhỏ, nhìn tổng thể trên cả khuôn mặt, rõ ràng chiếc mũi đó quá “đập vào mắt”. Mà mũi thuộc Thổ, Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp, Kim suy thì Thủy cũng chẳng thể vượng được (Kim sinh Thủy). Chiếc mũi giống như Thái Sơn, áp đảo lưỡng quyền, nuốt mất đường Pháp lệnh và cằm, bị coi là tướng cực xấu. Bởi vậy muốn phán đoán tướng cát hung của một người, không phải chỉ căn cứ vào một bộ phận nào đó trông đẹp hay xấu, mà phải xem toàn bộ các bộ phận trên khuôn mặt có hài hòa với nhau hay không, tức Ngũ hành phải cân bằng. Xem tay cũng tương tự như vậy, tướng tay tốt hay xấu không chỉ căn cứ vào mấy đường chỉ tay cơ bản. Đường chỉ tay tất nhiên rất quan trọng, như đường sinh mệnh phải dài, đường tình cảm phải ổn định, đường trí tuệ phải rõ nét. Nhưng cần phải xem xét đến toàn bộ hình dáng, độ dày, độ mềm mượt của bàn tay. Tướng tay được phân làm năm loại: tướng tay hình Kim, hình Mộc, hình Thủy, hình Hỏa và hình Thổ. Trong lòng bàn tay lại có trận đồ bát quái, chia thành tám cung vị là Càn, Khôn, Chấn, Ly, Đoài, Tốn, Khảm, Cấn. Cung vị phải tương xứng với hình dáng bàn tay, không bị tương xung tương khắc, đường chỉ tay phải hài hòa với cung vị, không được tương hình tương hại. Bởi vậy, xem tướng tay lấy Bát quái làm chủ. Đường chỉ, màu sắc bàn tay là phụ. Xem tướng tay, đầu tiên phải quan sát hình tướng bàn tay, rồi xem đến đường chỉ tay, Ngũ hành cân bằng, mới có thể luận đoán được ý đồ của tạo hóa.

Hình thần kiêm bị là gì? Thuật tướng số Trung Hoa bắt nguồn từ thời Tiên Tần, phát triển vào thời Tần Hán. Nhà nữ tướng số đầu tiên của Trung Quốc tên là Hứa Phụ đã đề xuất ra khái niệm hình thần cộng tham. Hình chính là vẻ bề ngoài, bao gồm: tướng mặt, tướng tay, tướng xương cốt, nốt ruồi… Thần là khí chất, là trường khí toát ra bên ngoài của một người, cũng chính là diện mạo thần thái của người đó. Người xưa đã nói: “Bề ngoài dễ đoán, thần khí khó định.” Tổ Gia từng nói: “Một vị cao nhân thật sự, chỉ cần anh đi qua họ, về căn bản họ không cần xem tướng mặt, tướng tay, nhưng họa phúc, thọ yểu của anh họ biết rõ như lòng bàn tay. Nhất cử nhất động, đi đứng nằm ngồi của một người cũng đều hiển lộ ra điềm cát hung. Nghe nói năm xưa Lý Hồng Chương đã dẫn theo ba người đến phủ của Tăng Quốc Phiên để cầu chức tước. Đến nơi, họ thấy Tăng Quốc Phiên đang đi dạo trong sân, ba người kia đứng đó, còn chưa kịp nói gì, Tăng Quốc Phiên chỉ liếc mắt nhìn một cái, rồi nói với Lý Hồng Chương: ‘Người đứng bên trái có thể tạm dùng được, người đứng giữa không thể dùng được, người đứng bên phải có thể trọng dụng.’ Tăng Quốc Phiên chỉ nhìn qua dáng đứng và ánh mắt của họ, đã có thể đưa ra nhận định của mình. Về sau, lịch sử đã chứng minh cho lời luận đoán của Tăng Quốc Phiên, người đứng bên phải về sau đã trở thành vị Tuần phủ đầu tiên, tiếng tăm lừng lẫy Đài Loan, đó chính là Lưu Minh Truyền. Trước khi Tăng Quốc Phiên chết, ông ta đã để lại cuốn sách dạy xem tướng số Băng Giám do chính ông nghiên cứu và chỉnh lý.” Đó cũng chính là tài liệu mà hiện nay bọn Từ Hoài Cận đang học theo.

Đứng trước Tổ Gia, Từ Hoài Cận chỉ là một chú chim non mới rời tổ. Nhưng ông ta vẫn muốn thử bản lĩnh của Tổ Gia, lại hỏi về một vấn đề đầy thách thức trong giới xem tướng: “Thưa tiên sinh, vậy thì theo ngài, đoán mệnh theo Bát tự chính xác tới đâu?”

Tổ Gia nghe xong, mỉm cười nói: “Như vừa rồi ta đã nói. Bát tự suy cho cùng cũng chỉ là tổ hợp Thiên can, Địa chi của giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người hợp thành. Mỗi nhóm có hai chữ, tổng cộng là tám chữ, nên được gọi là Bát tự, cũng vì nó được tạo thành từ niên trụ, nguyệt trụ, nhật trụ, thời trụ nên còn được gọi là Tứ trụ, đoán mệnh theo Bát tự còn được gọi là đoán mệnh theo Tứ trụ. Ban đầu, Lý Hư Trung đời Đường sáng lập ra phương pháp đoán mệnh theo Tam trụ, tức chỉ xem xét đến ngày, tháng, năm sinh của một người, mà không xem xét đến giờ sinh. Đến đời Tống, Từ Tử Bình đã phát hiện ra những thiếu sót của việc dùng Tam trụ luận đoán số mệnh, ông đã phát triển lên thành Tứ trụ, tức đưa cả giờ sinh của một người vào luận đoán, từ đó, đoán mệnh theo Bát tự mới được hình thành. Vì cống hiến to lớn này của Từ Tử Bình, đoán mệnh theo Bát tự cũng được tôn xưng là “Thuật xem tướng Tử Bình”. Sở dĩ có bước nhảy vọt mang tính lịch sử này là do Từ Tử Bình thấy có quá nhiều người có cùng ngày, tháng, năm sinh, nếu không đưa giờ sinh vào phạm vi luận đoán thì Tam trụ của những người sinh ra vào cùng một ngày sẽ giống nhau hết thảy, số mệnh cũng sẽ giống nhau. Đây rõ ràng là chuyện quá hoang đường. Việc đưa thêm giờ sinh, đã chia nhỏ hơn nữa những người được sinh ra trong cùng một ngày theo 12 canh giờ, giờ sinh khác nhau sẽ có sự khác nhau về mệnh tốt xấu, nhờ sự chia nhỏ này nên kết quả càng chi tiết và chính xác hơn. Nhưng như vậy đã hoàn hảo chưa? Chưa đâu. Những người được sinh ra cùng giờ sinh cũng có rất nhiều, Bát tự của họ cũng y hệt nhau, lẽ nào số mệnh cũng giống nhau ư? Đương nhiên không phải vậy. Theo như thiển ý của ta, nếu có thể lại chi tiết hóa hơn nữa giờ sinh đến từng khắc thì độ chính xác lại tăng thêm một phần, nhưng, như vậy sẽ không còn là đoán mệnh theo Bát tự nữa, mà phải là đoán mệnh theo Thập tự. Đương nhiên, đây chỉ là việc xem xét đến yếu tố thời gian, chứ chưa xem xét đến yếu tố về không gian. Môi trường nơi một người được sinh ra cũng có ảnh hưởng rất lớn đến số mệnh. Các hạ thử nghĩ xem, vào đúng giờ khắc này, trên mảnh đất Trung Hoa rộng lớn có biết bao nhiêu con người được sinh ra? Bát tự của những người này giống nhau, nhưng môi trường mà họ được sinh ra khác nhau một trời một vực. Có người được sinh ra tại nơi có khí hậu ẩm ướt như ở phương Nam, có người được sinh ra tại vùng giá rét khắc nghiệt ở phương Bắc. Địa thế, ánh sáng, nhiệt độ đều khác nhau, thì vận mệnh tất cũng sẽ khác nhau. Bởi vậy, theo ta thấy, Bát tự chỉ là một khái niệm tổng quát, cần phải phối hợp xem Phong thủy với tướng thuật, mới có thể đưa ra kết quả chính xác được.”

Sau khi Tổ Gia nói xong, ông yên lặng quan sát. Từ Hoài Cận đã bị khuất phục hoàn toàn, ông ta vội đứng lên, cúi rạp người nói: “Tổ Gia quả là người am hiểu tường tận Dịch lý, thông kim bác cổ. Tại hạ xin bái phục, bái phục!”

Nói xong, ông ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc, rồi lại cúi đầu nói với Tổ Gia: “Tiên sinh, bỉ nhân có một việc muốn thỉnh giáo, xin tiên sinh chỉ giúp.”

Tổ Gia điềm tĩnh nói: “Các hạ cứ nói.”

Từ Hoài Cận nói: “Nơi tôi làm việc, sắp cải tổ biên chế. Đây là một cơ hội thăng tiến hiếm có, không biết tiên sinh có thể thi triển đạo pháp, giúp tôi một phen. Tôi nhất định sẽ hậu tạ.”

Tổ Gia trầm ngâm suy nghĩ, rồi thở dài.

Từ Hoài Cận thấy vậy vội vàng hỏi: “Sao tiên sinh lại thở dài, lẽ nào trong mệnh cục của tôi có điềm không được tốt lành ư? Hay là…”

Tổ Gia nói: “Người học Chu Dịch quý ở sự thành khẩn, có như vậy ta mới có thể luận đoán chính xác cho các hạ được.”

Từ Hoài Cận nói: “Vâng! Vâng! Tiên sinh có điều gì xin cứ dạy.”

Tổ Gia nói: “Năm nay, mệnh của các hạ gặp phải tiểu nhân. Tóm lại là luôn có kẻ làm việc xấu sau lưng ông, khiến ông không thể yên lòng được.”

Từ Hoài Cận nói: “Đúng quá! Đều là một lũ lòng lang dạ sói, thường ngày luôn miệng huynh huynh đệ đệ, thế mà lại ngấm ngầm đâm sau lưng. Khốn nạn! Khốn nạn thật!”

Đây đều là những thông tin mà Hoa Nguyệt Dung cung cấp, sau mấy ngày vui vẻ bên nhau, mỗi khi ôm Hoa Nguyệt Dung trong lòng, Từ Hoài Cận thường trút bỏ nỗi bực dọc, chửi bới bọn đồng liêu trong Cục Quân thống rặt một lũ nham hiểm, xảo quyệt. Kỳ thực, cho dù Hoa Nguyệt Dung không cung cấp những thông tin này thì Tổ Gia vẫn có thể lần ra chẳng mấy khó khăn. Bọn người trong Cục Quân thống luôn lục đục, trắng đen hỗn tạp, đấu đá lẫn nhau, đã không còn là chuyện bí mật nữa rồi. Ở đây cái hay chính là ở sự mê muội của người trong cuộc. Từ Hoài Cận thường ngày luôn đề phòng bọn đồng liêu bên cạnh mình, nhưng lại không nghĩ rằng cần phải cảnh giác với cả người ngoài Cục Quân thống.

Tổ Gia nói tiếp: “Các hạ muốn một bước lên mây, thăng quan tiến chức, cần phải làm hai việc. Nếu không, không những không được lên chức, mà còn gặp họa trên chốn quan trường.”

Từ Hoài Cận vội vàng hỏi: “Là hai việc gì? Xin Tiên sinh dạy bảo giúp cho!”

Tổ Gia làm ra điệu bộ muốn nói nhưng lại thôi, lắc lắc đầu rồi thở dài đánh thượt một cái, lẩm bẩm tự nói với mình: “Khó đây, khó đây.”

Từ Hoài Cận sốt ruột: “Tiên sinh cứ nói đừng ngại, cần phải mất bao nhiêu?”

Tổ Gia cười nhạt: “Đây không phải là vấn đề tiền bạc, mà là… Các hạ cũng nghiên cứu về đạo thuật, không biết có từng nghe qua phương pháp lấy âm bổ dương chưa?”

Từ Hoài Cận nghe vậy, mặt đỏ rần nói: “Cái này… cái này tôi đã từng nghe qua, là cách nam nữ giao hoan để đạt được sự cân bằng âm dương, trong Thiên kim yếu phương đã nhắc đến. Tiên sinh nói như vậy là có ý gì?”

Tổ Gia nói: “Tinh hoa của phương pháp này nằm ở chỗ rút lấy khí âm Tiên Thiên của một người con gái trinh nguyên, để bổ sung, bù đắp cho dương khí Hậu Thiên ở nam giới, Tứ trụ Bát tự của các hạ thuộc về thuần dương, mà năm nay lại là năm dương khí cường vượng, phàm trong vũ trụ vật cực tắc phản . Các hạ cần phải tìm được một người con gái còn trong trắng để cùng giao hoan, âm dương điều hòa, quan vị theo đó tất sẽ được thăng cao. Nhưng, chuyện nam nữ, nhất định phải do đôi bên cùng bằng lòng, các hạ tuyệt đối không được cưỡng cầu, bằng không làm trái đạo trời, chẳng bằng đừng làm còn hơn.”

Từ Hoài Cận nghe thấy, mừng như mở cờ trong bụng: “Đúng là trời giúp ta rồi. Nguyệt nhi chính là một trinh nữ.” Nhưng, ông ta không nói ra, vẫn ra vẻ đạo mạo, trang nghiêm, nói: “Chà chà, tiên sinh nói rất phải, việc này có cưỡng cầu cũng không mang lại kết quả gì, làm sao có thể ích kỷ vì mình mà làm hại đến con gái nhà lành được. Tôi sẽ từ từ tìm kiếm, nếu trời giúp tôi, sớm muộn gì mối lương duyên đó cũng sẽ đến, ngược lại, ý trời không muốn giúp, tôi đây cũng đành chấp nhận.” Mặc dù ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng vui như hoa nở.

Tổ Gia cười thầm trong bụng vì cái điệu bộ ra vẻ con người có đức hạnh của ông ta. Ông lại bồi thêm: “Ngoài ra, nếu ngày nào đó trời giúp, gặp được một cô nương như vậy, cần phải hết sức lưu ý. Sau cuộc giao hoan đó, trong vòng một năm người phụ nữ kia không được phép lại gần sông nước, nếu không sẽ gặp họa mất mạng chứ chẳng chơi.”

Từ Hoài Cận giật mình: “Sao lại phải vậy?”

Tổ Gia nói: “Sau khi âm khí Tiên Thiên của người con gái bị hao kiệt, cần có thời gian hồi phục. Ta lấy một sự so sánh hình tượng thế này đây giống như cây mạ non đã nhiều ngày không đước tưới tắm, héo rũ dưới ánh nắng gay gắt, thủy khí hao tổn, khát khô đến cùng cực, lúc này cần phải tưới nước, nhưng phải tưới nước từ từ từng ít một, để đất thấm nước dần dần, rễ hút lấy cung cấp cho cả cây. Nếu cứ hất nước thật mạnh, không những không cứu được cây mà ngược lại còn khiến cho ngập úng mà chết. Trong vạn vật thuộc âm, thủy là đại kỵ, vậy nên sau khi giao hoan, người phụ nữ phải tránh xa sông nước, nếu không tính mạng khó giữ. Hãy nhớ cho kỹ!”

Từ Hoài Cận nghe thấy thế, toàn thân toát mồ hôi: “Đáng sợ đến vậy sao? Bỉ nhân đã ghi nhớ rồi! Vừa rồi tiên sinh nói có hai việc, vậy việc kia là…”

Tổ Gia mỉm cười nói: “Việc còn lại rất đơn giản, không nguy hại gì đến tính mạng, đó là phải tích đức làm việc thiện. Trong mệnh cục của các hạ, Hỏa khí quá vượng, cần phải dùng thấp Thổ để hấp thu Hỏa khí. Trong 12 địa chi, mỗi địa chi đều tương ứng với một con giáp như: Tý là chuột, Sửu là trâu, Dần là hổ, Mão là mèo, Thìn là rồng, Tỵ là rắn, Ngọ là ngựa, Mùi là dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là lợn. Trong 12 con giáp này thì Sửu có Ngũ hành thuộc thấp Thổ. Các hạ tìm mua được 50 con là tốt nhất, nuôi dưỡng cẩn thận, không được bắt chúng cày bừa, không được đánh đập, cũng không được giết mổ lấy thịt, hàng ngày phải cho chúng ăn uống, cứ nuôi chúng cho chúng được sống lâu chết chuồng là được. Nếu các hạ thành tâm thành ý làm việc này, không những quan lộ hanh thông, mà còn có thể tăng thêm tuổi thọ nữa.”

Từ Hoài Cận hỏi: “Sao có thể nói vậy?”

Tổ Gia nói: “Chúng sinh trong sáu cõi, tất cả đều có linh ứng. Có câu ‘ngưu tòng lao, cẩu tòng ngục’. Những người giết mổ ăn thịt hai loài động vật này đều không có kết cục tốt đẹp, sinh thời thì ốm yếu đoản mệnh, sau khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục. Ông không những không ăn thịt chúng, còn giải cứu chúng, tự nhiên tuổi thọ tăng lên, quan lộ hanh thông.”

Từ Hoài Cận chợt bừng tỉnh: “Tiên sinh tấm lòng từ bi. Bỉ nhân kính phục! Nhưng, giờ đang thời kỳ loạn lạc thế này, muốn gom đủ 50 con trâu mà nuôi, cũng… cũng không phải là chuyện dễ gì.”

Tổ Gia gật gật đầu: “Mưu sự tại nhân thôi. Các hạ có thể phái thủ hạ đi đến các chợ gia súc tìm thử xem, nhưng có một điều cần lưu ý là phải thành thực trong mua bán, không được cướp đoạt của người ta, nếu không sẽ tạo thêm nghiệp ác đấy.”

Từ Hoài Cận gật đầu: “Tiên sinh cứ yên tâm. Đa tạ tiên sinh chỉ dạy.” Nói xong hắn cầm một xấp tiền đưa cho Tổ Gia.

Tổ Gia xua tay: “Không cần, khi nào các hạ công thành danh toại thì cảm ơn ta cũng không muộn.”

Từ Hoài Cận không biết nói gì thêm nữa.

Vào thời kỳ Dân quốc, thị trường gia súc vốn không khởi sắc, đặc biệt là sau cuộc kháng chiến, tình hình càng ảm đạm. Vì vụ dàn cục này, mà trong vòng một tháng trước đó, Trương Ân Thụy đã phải phái mấy chục tên chân tay đi hết nhà này đến nhà khác ở khắp vùng Giang Hoài để thu mua nghé con. Giá nghé con thấp hơn trâu nhiều, cho nên không phải tốn nhiều tiền. Nhưng vì thời gian gấp rút, sau phải mua cả trâu, cuối cùng thậm trí còn đi ăn trộm, nên cũng gom đủ mấy chục con trâu trước khi Tổ Gia ra tay. Sau đó sai các A Bảo đóng giả bọn buôn bán gia súc, ngày nào cũng dắt nghé, dắt trâu lượn qua các chợ gia súc ở lân cận. Đồng thời còn câu kết với băng nhóm xã hội đen trong vùng, tạm thời đuổi hết bọn Chọc mông lừa ở trong các chợ gia súc đi nơi khác, rồi phái các A Bảo đến chợ giả làm bọn Chọc mông lừa.

Chọc mông lừa là tiếng lóng, chỉ người môi giới đứng giữa bên bán và bên mua. Do hai bên mua bán không quen biết nhau, chợ gia súc thì lại đầy rẫy tiếng lóng và những mưu tính ngấm ngầm thâm hiểm, nên cả hai bên mua và bán đều không dám trực tiếp thương lượng, mặc cả. Từ đó, dần dần đám người chuyên đi dàn xếp mối quan hệ giữa hai bên mua và bán xuất hiện. Chúng đóng vai trò là người môi giới, làm cán cân lợi ích giữa đôi bên, sau khi vụ mua bán thành công sẽ được ăn chia phần trăm.

Đám A Bảo đã làm Chọc mông lừa, như vậy có nghĩa là cả người bán và kẻ môi giới đều là người của mình thì có thể kiếm lời nhiều nhất có thể rồi.

Tuy Từ Hoài Cận là một kẻ lọc lõi trong giới đặc vụ tình báo, nhưng lại chỉ là kẻ ngoại đạo đối với tin tình báo trên chợ gia súc, bởi thường ngày ông ta không quan tâm đến, cũng như không bao giờ để ý đến nơi buôn bán hôi hám kia.

Trong khoảng thời gian này, giá gia súc đột nhiên tăng vọt, Từ Hoài Cận đã phải dùng một khoản kinh phí rất lớn của đặc vụ, mới có thể mua đủ 50 con trâu. Ông ta khoanh lấy một miếng đất ở ngoại thành, rồi thuê vài người chuyên chịu trách nhiệm chăm sóc trâu. Sau khi làm xong hết những việc này, ông ta ngẫm nghĩ rồi bật cười. Ban đêm, nằm trên giường trò chuyện với Hoa Nguyệt Dung, ông ta nói: “Nguyệt nhi, nàng nói xem việc này có hoang đường không chứ? Nếu mà đồn ra ngoài, lại chẳng khiến người ta cười cho thối mũi ấy à?”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Có gì mà hoang đường đâu? Đó là việc liên quan đến vận mệnh, thà tin là nó có thể xảy ra chứ đừng nghĩ là nó không thể xảy ra. Cha muội cũng vì không tin lời vị tiên sinh này, nên mới tán gia bại sản, mất cả mạng sống đó sao? Nếu nói hoang đường, chỉ có mấy ông quan to như Sở trưởng mới hoang đường thì có. Chẳng phải Ngài đã từng nói cấp trên của mình, vị Đới Cục trưởng gì gì đó đã phải đổi đến mười mấy cái tên, lại còn Tưởng Ủy viên trưởng, mỗi khi đi đến đâu dựng trại đóng quân đều phải xem phong thủy…”

“Được rồi, được rồi! Bà cô bé nhỏ của tôi. Những việc này đều là việc cơ mật không được nói với người ngoài.” Từ Hoài Cận ngắt lời Hoa Nguyệt Dung, ôm nàng ta vào lòng, hai người lại quấn lấy nhau.

Đột nhiên Từ Hoài Cận nhớ đến lời dặn của Tổ Gia, vội vàng nói với Hoa Nguyệt Dung: “Nguyệt nhi, năm nay nàng tuyệt đối không được đến bờ sông. Tiên sinh đã nói, phải đầu mùa hạ sang năm nàng mới được lại gần sông nước.”

Hoa Nguyệt Dung cười nói: “Huynh sợ muội bị chết đuối à?”

Từ Hoài Cận nói. “Nói linh tinh, chết cái gì mà chết.”

Ông ta nào đâu biết, theo kế hoạch của Trương Ân Thụy và Tổ Gia, Hoa Nguyệt Dung phải “chết” một lần, nếu không, làm sao có thể thoát thân, lại dễ bị bại lộ. Vì thế, nhân dịp Từ Hoài Cận phải đến Lâm Trấn giám sát công tác, Hoa Nguyệt Dung đi dạo phố cùng với người hầu nhà Từ Hoài Cận, nàng nói nàng đã mang thai, muốn ra chợ cá bên bờ sông mua cá chép để phóng sinh, mong cho con của mình và Từ Hoài Cận sau này có thể “Cá chép vượt vũ môn”. Cô người hầu sống chết ngăn cản không được, đành phải đi theo.

Trương Ân Thụy đã bố trí bọn chân tay ngồi chực sẵn ở chợ cá, vừa hay hôm đó nước sông lên cao. Chính vào lúc Hoa Nguyệt Dung và người hầu gái đang phóng sinh cá bên bờ sông thì trong chợ xảy ra vụ xô xát. Hình như có người cướp cá, rồi không biết một đám người từ đâu chạy nhào ra, xô ngã Hoa Nguyệt Dung và người hầu xuống sông, đợi đến khi cô người hầu được người ta cứu lên bờ thì Hoa Nguyệt Dung đã biến mất trong dòng nước xiết.

Cô người hầu hớt hải chạy vội về nhà, hốt hoảng gọi điện thoại cho Từ Hoài Cận. Ông ta vội vã quay về, đứng trước dòng sông đang cuồn cuộn chảy, thì mọi việc đã muộn mất rồi. Từ Hoài Cận đứng bên bờ sông, gào khóc đến cạn khô nước mắt, con tim kể như đã chết.

Từ Hoài Cận suy sụp suốt mấy tháng trời, vẻ cau mày nhăn mặt cùng với nụ cười của Hoa Nguyệt Dung đã hằn sâu trong tâm trí. Hoa Nguyệt Dung ra đi mang theo cả con tim ông ta. Ngày nào ông ta cũng chạy ra bờ sông, đêm đến, nằm trên giường, đôi mắt vô hồn trân trân nhìn lên trần nhà. Mỗi khi nhớ đến những ngày tháng có Hoa Nguyệt Dung, lại xúc động, nước mắt trào ra.

Ông ta định sau này sẽ chăm sóc thật tốt cho “mẹ” của Hoa Nguyệt Dung, ông ta muốn thực hiện lời hứa của “Nguyệt nhi”, nhưng ông ta đâu biết rằng, người “mẹ” cũng “lao đầu xuống sông mà tự vẫn” vì không chịu đựng nổi nỗi đau mất con gái.

Cuộc chơi kết thúc, tất cả mọi người đều phải rút, ngoài 50 con trâu vẫn đang nhởn nhơ gặm cỏ ra, Từ Hoài Cận đã chẳng còn gì trong tay.

Sau khi Hoa Nguyệt Dung và vị A Bảo già đi lánh mặt một thời gian quay về Đường khẩu, Trương Ân Thụy và Tổ Gia bắt đầu bày tiệc ăn mừng.

Xa cách lâu như vậy, Trương Ân Thụy cũng rất nhớ Hoa Nguyệt Dung. Sau bữa tiệc, Trương Ân Thụy giữ Hoa Nguyệt Dung ở lại, ôm chầm lấy nàng: “Nguyệt nhi, lần này muội đã phải chịu nhiều thiệt thòi rồi.”

Hoa Nguyệt Dung cười khổ sở: “Sao đột nhiên Đại Sư bá lại khách khí như vậy? Lần này đâu có mất mát gì nhiều.”

Trương Ân Thụy nói: “Nguyệt nhi, nàng có biết lần này ta vét về bao nhiêu tiền như vậy là để làm gì không?”

Hoa Nguyệt Dung nói: “Chẳng phải là vì kế sinh nhai của các huynh đệ trong Đường khẩu sao?”

Trương Ân Thụy cười, nói: “Ừm, nói như vậy cũng đúng, nhưng có điều lần này là vì tính kế lâu dài cho các huynh đệ.”

Hoa Nguyệt Dung thấy lạ bèn hỏi: “Lâu dài ư?”

Trương Ân Thụy nói: “Đúng vậy, đây là vụ cuối cùng của chúng ta rồi.”

Hoa Nguyệt Dung sửng sốt: “Cuối cùng?”

Trương Ân Thụy nói: “Chẳng phải nàng vẫn thường hỏi ta, khi nào có thể cưới nàng, chúng ta cùng rời khỏi chốn thị phi này, để được sống một cuộc sống yên vui hay sao? Giờ đây chúng ta đã sắp được rời khỏi chốn thị phi này rồi, bỏ lại tất cả, để sống một cuộc sống khác, một cuộc sống đàng hoàng, đường đường chính chính.”

Những lời này khiến Hoa Nguyệt Dung giật mình ngồi bật dậy: “Muội chưa hiểu.”

Trương Ân Thụy nói: “Cuộc sống chuyên đi lừa đảo không phải là kế lâu dài. Sau khi Cửu gia chết, ta đã định rửa tay gác kiếm, muốn đầu quân cho Lý Kế Thâm đi kháng Nhật. Số tiền kiếm được lần này đều dùng để mua súng ống đạn dược. Hai hôm nữa, ta sẽ đánh bài ngửa với mọi người. Ai bằng lòng theo ta, ta sẽ đưa đi cùng, còn những ai không bằng lòng theo ta thì tùy… Ta muốn đưa muội đi, sau này sẽ đối tốt với muội, cưới hỏi muội đàng hoàng…” Nói đến đây, Trương Ân Thụy nắm chặt tay Hoa Nguyệt Dung, ánh mắt tha thiết nhìn nàng.

Hoa Nguyệt Dung im lặng.

“Sao vậy? Muội không thấy vui sao? Chúng ta sắp đi trên con đường chính nghĩa rồi, muội sẽ là cô dâu của ta. Về sau ta sẽ không để nàng phải lo lắng, sợ hãi nữa!” Trương Ân Thụy vừa nói vừa nhìn Hoa Nguyệt Dung với ánh mắt tha thiết.

Hoa Nguyệt Dung trầm giọng nói: “Muội vui, muội vui lắm!”

Trương Ân Thụy từ từ cởi áo Hoa Nguyệt Dung…

Một khi phụ nữ đã thay lòng thì mọi thứ diễn ra trên giường cũng chẳng còn hương vị gì cả. Cái cảm giác này không thể nói được thành lời, nhưng có thể cảm nhận được. Sau một hồi lăn qua lăn lại, Trương Ân Thụy buông Hoa Nguyệt Dung ra, tựa vào đầu giường, châm một điếu thuốc, hút một hơi thật dài, rồi chậm rãi nhả khói, nói: “Muội rất khác.”

Hoa Nguyệt Dung không chối cãi, cũng không lên tiếng, nàng im lặng rất lâu rồi nói: “Khác sao?”

Trương Ân Thụy nói: “Muội vẫn như đang dàn cục.”

Hoa Nguyệt Dung gượng cười một cách khổ sở: “Chẳng phải ngày nào muội cũng ở trong cục đó sao?”

Trương Ân Thụy hít một hơi dài, nhả khói ra. Khói thuốc bện lại thành những vòng tròn bay lên. Hai người im lặng, không ai nói với ai câu gì. Căn phòng bỗng trở nên tĩnh lặng. Một lúc lâu sau, Trương Ân Thụy nói: “Muội nói đi! Nói!”

Hoa Nguyệt Dung cắn môi, cúi đầu trầm tư suy nghĩ, một lúc sau ngập ngừng, ấp úng nói: “Muội… có thể sống cuộc sống của mình không? Muội không cần thứ gì khác và muội cũng không muốn nói gì lúc này.”

Tay Trương Ân Thụy run lên, tàn thuốc dài rụng xuống, lại là một khoảng tĩnh lặng trống rỗng. Hoa Nguyệt Dung vẫn cúi đầu. Một lúc sau, Trương Ân Thụy nói tiếp: “Mấy năm nay… Muội đi theo ta phải chịu nhiều cực khổ… Nếu muội đã có lựa chọn, chỉ cần không phương hại đến việc lớn của ta, ta… sẽ để muội ra đi.”

Đột nhiên Hoa Nguyệt Dung ngước mắt lên, nhìn thẳng vào Trương Ân Thụy nói: “Để muội đi thật sao?”

Trương Ân Thụy chau mày, không nói.

Hoa Nguyệt Dung đột nhiên quỳ xuống, nước mắt tuôn rơi: “Hãy để muội đi! Hãy buông tha muội! Muội thề sẽ sẽ giấu kín những chuyện này trong lòng, suốt đời không bao giờ nói ra. Muội chỉ cầu mong được sống cùng ông ấy. Muội chỉ cầu mong được sống cùng ông ấy.”

Trương Ân Thụy sững sờ nhìn Hoa Nguyệt Dung, mãi sau mới nói: “Hãy đứng lên, đứng lên đi, từ từ nói. Nói ta xem đã xảy ra chuyện gì, ta sẽ để muội đi.”

Hoa Nguyệt Dung nhìn Trương Ân Thụy với ánh mắt dè chừng. Trương Ân Thụy mỉm cười nói: “Đừng sợ, hãy nói ta nghe.”

Hoa Nguyệt Dung thu hết can đảm nói ra từ đầu đến cuối mọi việc chôn giấu trong lòng, nàng kể đến việc Từ Hoài Cận đã đối xử với mình chân tình thế nào, bản thân mình cũng không kìm nén nổi tình cảm nên đã yêu thương Từ Hoài Cận ra sao, nàng kể mãi, kể mãi… Cuối cùng khi đôi mắt đã nhòa lệ, nàng nói: “Là muội có lỗi với huynh, là muội có lỗi với huynh. Lần này, muội không thể đi cùng huynh được, không thể đi cùng được. Sau này muội nhất định sẽ không nói ra những chuyện này, tuyệt đối im lặng. Đường khẩu cũng sắp giải tán rồi, muội không làm hại đến việc lớn của huynh, muội chỉ cầu xin huynh buông tha cho muội!”

Trương Ân Thụy chỉ im lặng nghe, gương mặt không chút biểu cảm, cuối cùng chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Nói như vậy, muội … yêu hắn thật lòng sao?”

Hoa Nguyệt Dung thẳng thắn gật đầu. Trương Ân Thụy nhắm nghiền mắt lại, hai giọt nước mắt từ từ lăn xuống.

Hoa Nguyệt Dung không nói gì, lặng lẽ lui ra khỏi phòng Trương Ân Thụy. Trở về phòng mình, nàng lấy bút mực ra viết một bức thư mà nàng tự biết rằng sẽ không bao giờ có thể gửi đi được, viết xong nàng đặt thư dưới gối, rồi ra trước gương chải lại tóc, sau đó nằm lên giường, gối đầu lên bức thư rồi nhắm mắt lại trong niềm hạnh phúc.

Một tiếng súng vang lên khi trời còn chưa sáng, cảnh đêm tĩnh mịch dường như cũng run rẩy, thương cảm cho một kiếp hồng nhan, Hoa Nguyệt Dung đã chết. Không ai biết Trương Ân Thụy vì nghĩ đến việc lớn của mình, hay vì nỗi oán hận trong lòng. Chỉ biết rằng, ông ta đã tự tay giết chết người con gái mà mình yêu thương nhất. Càng không ai có thể biết rằng trước khi chết Hoa Nguyệt Dung có ngủ thật hay không, hay là nàng im lặng nằm trên giường. Có lẽ nàng cũng nghe thấy tiếng bước chân của Trương Ân Thụy, hơn hết là nghe được tiếng lên đạn của ông ta, nhưng nàng không chạy trốn, mà có muốn cũng không biết phải trốn nơi nào. Đất trời tuy rộng lớn, nhưng không có nơi nào cho nàng dung thân cả.

Nhiều năm sau, nhắc lại vụ dàn cục này Tổ Gia vẫn chỉ biết lắc đầu thở dài. Ai tốt, ai xấu, ai trong cục, ai ngoài cục, Tổ Gia không rõ, Trương Ân Thụy cũng không rõ, Từ Hoài Cận lại càng không rõ. Hoa Nguyệt Dung ra đi, mang theo nỗi thống khổ và mối tình chưa dứt của cả cuộc đời nàng.

Sau khi quân Nhật đánh đến, Tổ Gia sai người đem những con trâu này đến cho các vị hương thân phụ lão của địa phương, họ đã dùng những con trâu này đi kéo xe, giúp đưa các chiến sĩ, quân nhân Quốc dân Đảng bị thương ở tiền tuyến về. Tổ Gia thở dài thương cảm: “Người nuôi trâu ba năm, trâu phục vụ người cả đời, thiện ác tương báo vốn rất đơn giản, vì đâu con người cứ vướng mãi trong cái vòng luẩn quẩn này!”

Về sau, Tổ Gia nghe nói Từ Hoài Cận và Quân thống đường ai nấy đi. Hắn bị truy sát phải chạy sang Hồng Kông, về sau không có tin tức gì nữa.

Sau khi Trương Ân Thụy lừa được tiền liền chiêu binh mãi mã, lôi kéo người hòng đọ sức với Cục Quân thống. Nghe nói ông ta đã giết chết rất nhiều thân tín dưới quyền của Đới Lạp. Về sau, Trương Ân Thụy đầu quân cho Lý Kế Thâm cùng phản Tưởng kháng Nhật. Sau khi cuộc kháng chiến bùng nổ toàn diện, Trương Ân Thụy đã nhiều lần xung phong ra tiền tuyến. Năm 1940 ông ta bị một viên đạn bắn trúng ngực trong chiến dịch Quế Nam, trước khi chết có để lại một di nguyện, sau khi hỏa tảng đưa tro cốt của mình về quê nhà, chôn bên cạnh mộ phần cô độc của Hoa Nguyệt Dung.

Vụ dàn cục mỹ nhân lần này, là cuộc giao đấu trực diện đầu tiên của phái Giang Tướng với Cục Quân thống Quốc dân Đảng. May thay, lần đó bọn đặc vụ của Quân thống vẫn chưa phát giác ra, nên chưa bị chúng quay lại vồ. Phong Tử Thủ muốn báo thù cho Cửu gia, Tổ Gia cũng vậy. Ông đã dùng cách này để nhắn nhủ Phong Tử Thủ, cũng là giảng một bài học sinh động cho anh ta. Từ đó. Phong Tử Thủ ngộ ra một đạo lý rằng: phàm là người thành đại sự, tất không phải là kẻ hữu dũng vô mưu, liều mạng thì ai cũng có thể liều, nhưng một mạng sống thì đáng bao nhiêu quan tiền chứ?

Thế lực của Quân thống ngày một mạnh thêm, Tổ Gia đã liệu trước sớm muốn đến một ngày phái Giang Tướng sẽ đụng độ với Cục Quân thống tại nơi ngõ hẹp, nhưng ông không ngờ rằng ngày đó lại đến nhanh và bất ngờ như vậy.