Đám cưới ngày xưa – Báo Bà Rịa – Vũng Tàu điện tử

“Ô ! Ô! Sáng hôm nay trên quê hương tôi, quê hương xinh xinh, quê hương hữu tình, quê hương xinh xinh, quê hương hòa bình….”

Một buổi chiều xuân, ngồi nhâm nhi ly cà phê nơi quán vắng, nghe trọn bài hát “Đám cưới trên đường quê” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, lòng bồi hồi, xao xuyến nhớ về hình ảnh những đám cưới ngày xưa ở thập niên tám mươi của thế kỷ trước.

Đám cưới ngày xưa rất đơn giản nhưng cũng rất vui nhộn và mang nhiều kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ của những con người với nhau. Thời đó, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn. Nhà nào có đám cưới thì gia chủ phải tự lo toàn bộ, hoàn toàn “cây nhà lá vườn”.

Trước đám cưới một tháng thì gia chủ phải lập danh sách khách mời và đi đặt thiệp. Thiệp in xong thì tranh thủ  nhận về rồi tập trung con cháu và mượn thêm vài người hàng xóm chữ đẹp để ghi thiệp. Tối tối, bên ngọn đèn dầu, từng nhóm người xúm lại, người đọc, người ghi thiệp, người thì để ruột thiệp vào bì. Chủ nhà thì lăng xăng lo nấu nước, nấu chè, nấu khoai, hoặc có khi nấu nồi cháo đãi “khách ghi thiệp”. Không khí rất vui, rất ấm áp về “tình làng nghĩa xóm”. Thiệp ghi cả tuần mới xong. Ghi thiệp xong thì tới khâu mời thiệp. Khâu này cũng khá quan trọng nên gia chủ phải lựa chọn người có gương mặt sáng sủa chút, biết ăn nói mới nhờ đi mời thiệp trong xóm ấp, còn khách hay bà con ở xa thì đích thân chủ nhà đi mời. Khâu ghi thiệp và mời thiệp xong xuôi, gia chủ mới thở phào nhẹ nhỏm.

Còn khoảng nửa tháng tới đám cưới thì chú rể (hoặc cô dâu) tranh thủ  mượn bạn bè đi rước dâu (hoặc đưa dâu), nhờ người làm rể phụ (dâu phụ), rồi lo đi thử áo cưới ở tiệm cho thuê, hợp đồng thợ trang điểm, chụp hình… đây là những dịch vụ quan trọng cần tranh thủ lo sớm vì những dịch vụ này vào thời điểm đó cũng khan hiếm người làm, sợ “đám đụng đám” thì cũng khó.

Ngày cưới cũng đã đến, ai được gia chủ nhờ đi mượn bàn ghế thì lo rủ nhau đi mượn bàn ghế, ai lo dựng rạp thì xúm lại dựng rạp, ai đi đốn đủng đỉnh thì kéo nhau đi đốn, ai làm gà, làm vịt thì hè nhau làm, nấu nướng. Ai cũng có công việc cả, tùy theo “năng lực” được “tiến cử” mà gia chủ phân công…

Mà nói thật, ngày nhóm họ là ngày bận rộn nhất của những người đi phụ đám cũng như gia chủ, vì ai cũng làm hết công sức cả. Vui nhất là nhóm đi mượn bàn ghế. Trong nhóm tự phân công người cầm sổ, người ghi số vào bàn, ghế mượn, vài ba người kéo xe đi chở bàn ghế. Người cầm sổ phải là người hiểu rõ nhà nào có bàn ghế, nhà nào không có bàn ghế để đi mượn cho nhanh, tránh mất thời gian. Bàn ghế mượn xong, được chất lên xe kéo về, vừa đi, vừa hát nghêu ngao, cười giỡn vô tư, rất thoải mái.

Rạp cưới được dựng lên cũng từ vật dụng được mượn của bà con láng giềng như tre, lá hoặc tấm ga to đùng dùng để phủ nóc rạp. Mặt trước, mặt sau và xung quanh rạp được trang trí bằng nhánh đủng đỉnh và bông dừa. Bên trong rạp được bung dây giấy đủ màu sắc xanh, đỏ, vàng, tím và treo những chiếc lồng đèn hình tròn trông rất bắt mắt. Cổng rạp được các “nghệ nhân” địa phương thiết kế bằng tàu dừa, lá đủng đỉnh và hoa giấy, cửa vào có đính hình đôi chim bồ câu đậu trên trái tim, biểu tượng cho đời sống chung thủy vợ chồng.

Công việc chuẩn bị xong xuôi, gia chủ dọn cơm mời ăn và dặn dò rất kỹ về công việc cho buổi tối và ngày mai. Nhóm mượn bàn ghế và nhóm bưng mâm, chạy bàn thì lúc nào cũng được gia chủ quan tâm triệt để vì gia chủ sợ tối hoặc ngày mai nhóm này mà lỡ nhậu say bí tỉ thì coi như công việc “chuyên môn” khó ai thay thế hoàn chỉnh được.

Tối đến, rạp cưới lung linh ánh đèn, âm thanh của dàn nhạc sống trỗi lên ầm ầm, kích thích tinh thần văn nghệ của mọi người. Ai cũng muốn hát, muốn thể hiện giọng ca và phong cách ăn mặc của mình trước mọi người. Không có ca sĩ nổi tiếng chỉ là khách hát cho nhau nghe. Nhạc công là những người hàng xóm biết đàn, biết đánh trống được chủ nhà mượn đến đàn ca miễn phí. Vậy mà đêm ca nhạc phục vụ đám cưới diễn ra vô cùng hào hứng, vô cùng hấp dẫn. Tiếng hát, tiếng đàn ca ngợi đất nước, ca ngợi sự thay đổi của quê hương đã làm con người càng yêu thương nhau hơn, càng gắn bó nhau hơn trong “Tình làng nghĩa xóm”.

Đám thanh niên chúng tôi khoác lên mình bộ cánh ưng ý nhất, đã được chăm chút từ vài ngày trước. Quần áo ủi láng cót, chân mang giày, áo bỏ vào quần, xức dầu thơm đậm đặc luôn. Nhóm thanh niên chúng tôi vừa là khách và cũng vừa là người phụ chạy bàn, tiếp khách với gia chủ nên chúng tôi hết đảo qua bàn này rồi qua bàn khác, mà chủ yếu là những bàn có nhiều cô gái đẹp…

Hồi đó đi rước dâu hay đưa dâu trong xã thường là đi bộ, vì không có đủ xe máy để đưa, rước. Vậy mà vui, vậy mà mang rất nhiều kỷ niệm đẹp (sau này, có dịp ngồi kể lại cho con cháu nghe, chúng thích thú, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác!). Vui nhất là lúc rước dâu ngang chợ, bà con hai bên chợ đứng trước nhà xem đám cưới rất đông. Ai cũng muốn xem cô dâu là ai, mặt mũi như thế nào, đẹp hay không đẹp, rồi bàn tán xôn xao. Đám con nít thì rủ nhau chạy theo và hò hét ing ỏi “cô dâu, chú rẽ, làm bể bình bông, đổ thừa con nít, bị đòn nát đít…”. Dứt câu, cả bọn vỗ tay, làm cho cô dâu thẹn đỏ mặt. Những nam thanh, nữ tú đưa, rước dâu có khi cũng thầm thương, trộm nhớ nhau sau lần gặp mặt như vậy. Họ lại tìm hiểu nhau, rồi đám cưới lại được tổ chức trong niềm vui tột cùng của hai bên gia đình.

TRỌNG NGHĨA