Giải đáp Phụng vụ

 

 Xin trả lời ngay rằng cô dâu chú rể không nên đọc Sách Thánh trong
lễ cưới của họ vì những lý do sau:

 

1) Thứ nhất, thực hành
này không nằm trong ý định của Hội Thánh

 

Thật vậy, không một sách nghi thức hay tài liệu phụng vụ nào của
Giáo Hội quy định hay hướng dẫn cô dâu chú rể đọc Sách Thánh trong
lễ cưới của họ. Thay vào đó, Giáo Hội lại yêu cầu đôi vợ chồng tương
lai nên chọn lựa bản văn Sách Thánh sẽ công bố. Sách Nghi thức Cử
hành Hôn nhân viết: “Nếu tiện, (cha xứ) nên cùng với những người sắp
kết hôn chọn những bài đọc Thánh Kinh, là những bài sẽ được quảng
diễn trong bài giảng…”[1] Cuốn sách này liệt kê đến 9 Bài đọc Cựu
Ước;[2] 7 Thánh vịnh Đáp ca;[3] 13 Bài đọc từ các thư của các Tông
đồ;[4] và 10 bài Tin Mừng.[5] Do đó, trong quá trình chuẩn bị,[6]
các vị hữu phụ trách nên khuyến khích đôi phối ngẫu dành nhiều thời
gian đọc chung với nhau một số hoặc tất cả những bản văn Kinh Thánh
này, cầu nguyện trên các bản văn, rồi chọn lựa từ đó một Bài đọc Cựu
Ước, một bài Thánh vịnh Đáp ca, một Bài đọc Tân Ước và một bài Tin
Mừng.[7] Như vậy, đôi hôn phối chọn lựa Bài đọc Sách Thánh, nhưng
người khác sẽ công bố Lời Chúa trong lễ cưới của họ, còn đích thân
họ thì không.[8]

 

2) Thứ hai, cử hành Thánh
lễ là hành động phụng vụ của toàn thể Hội Thánh

 

Cử hành hôn nhân mang tính cộng đồng, vì lợi ích của Hội Thánh, chứ
không là biến cố của cá nhân hay gia đình nào.[9] Mỗi cử hành phụng
vụ đều là sự quy tụ của Dân Chúa như một gia đình của Thiên Chúa.
Nói cách khác, là sự quy tụ của một số tác vụ thiết lập nên cộng
đoàn đức tin.[10] Lễ cưới không phải chỉ thuộc về hay là ngày của
đôi hôn nhân và gia đình họ mà là một biến cố của cả cộng đoàn địa
phương. Bởi thế, tốt nhất, cộng đoàn giáo xứ nên tham dự lễ cưới
trong đó mỗi thành viên sẽ thi hành chức năng khác nhau như đã được
lãnh nhận (chức thánh, tác vụ) hay ủy thác (người nào việc nấy).[11]
Trong tinh thần đó, việc đọc Sách Thánh nên phân công cho những độc
viên Sách Thánh. Còn cô dâu và chú rể, họ là tác viên cử hành Bí
tích Hôn phối cho nhau chứ không phải làm độc viên Sách Thánh. Bổn
phận trọng đại của họ là bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của mình trước
mặt cộng đoàn đang được quy tụ.[12] Vì thế, trong phần Phụng vụ Lời
Chúa, họ nên ngồi để lắng nghe Sách Thánh. Sứ điệp Lời Chúa trong
dịp này được gởi trao một cách đặc biệt cho đôi hôn nhân. Thật tréo
ngoe và kỳ quặc khi họ lên công bố cho người khác.[13]

 

3) Thứ ba, tác viên đọc
sách là người công bố và chuyển đạt Lời Chúa cho cộng đồng tín hữu

 

Đọc Lời Chúa không phải đơn thuần như việc đọc sách báo, nhưng là
làm cho Kinh Thánh thành Lời, một Lời sống động, một Lời được loan
báo cho Giáo Hội nghe theo. Vì thế người đọc Sách Thánh phải thấu
hiểu Bài đọc và có khả năng truyền thông Lời Chúa.[14] Những khả
năng này thì không phải ai cũng có cũng như không phải ai cũng có
khả năng hát hay hoặc giảng giải hấp dẫn (x. 1 Cr 12,6-10). Vì vậy,
không thể cứ là cô dâu chú rể thì lên công bố Lời Chúa.

 

Trong thực tế, Giáo Hội đã ban tác vụ đọc sách cho một số người để
họ chuyên chăm công bố Lời Chúa trong phụng vụ. Ngoài ra, mỗi giáo
xứ phải tuyển lựa và huấn luyện một số thành viên làm độc viên Sách
Thánh. Họ hình thành một đội hay một nhóm chuyên đọc Sách Thánh
trong các cử hành phụng vụ tại giáo xứ nhằm tránh tình trạng chỉ
định đột xuất hay chỉ định bất kỳ ai lên công bố Lời Chúa.[15]

 

Tài liệu của Hội đồng Giáo Hoàng về Gia đình nêu rõ: “Việc công bố
Lời Chúa (trong Thánh lễ cưới) được thực hiện bởi những độc viên
thích hợp và đã được chuẩn bị. Họ có thể được chọn trong số những
người hiện diện, đặc biệt là các nhân chứng, các thành viên gia
đình, bạn hữu, nhưng dường như không thích hợp để cho đôi hôn nhân
làm độc viên. Quả thực, họ là người tiếp nhận đầu tiên Lời Chúa được
công bố.”[16] Vì vậy, ngoại trừ cô dâu chú rể, tác viên đọc sách lý
tưởng nhất chính là những độc viên Sách Thánh của giáo xứ. Trường
hợp không có những tác viên này, chúng ta mới chọn lựa những người
thân yêu của cô dâu chú rể lên đọc Sách Thánh. Tuy nhiên, những
người này cũng phải có khả năng và tố chất phù hợp với chức năng
công bố Lời Chúa. Tốt nhất, họ là người thành thạo, quen thuộc hay
từng thi hành chức năng này. Chẳng hạn, họ là độc viên Sách Thánh
tại giáo xứ của họ. Nên nhớ rằng, chọn lựa người công bố Lời Chúa
trong Thánh lễ không bao giờ dựa trên phạm trù tình cảm hay danh
dự.[17] Ở đây, cần có sự phân định thực sự để tìm kiếm người công bố
Lời Chúa.[18]

 

4) Thứ tư, tác viên đọc
Sách Thánh thường có phẩm phục riêng

 

Phẩm phục này có thể là áo alba (trắng dài), tu phục của các dòng tu
hay thường phục xứng đáng nhằm mục đích vừa diễn tả chức vụ của tác
viên vừa diễn tả lòng tôn kính và trang trọng của nghi lễ thánh.[19]
Trong khi đó, y phục của cô dâu (thường là những chiếc áo soiré quá
dài) đôi khi gây ra tình huống phức tạp không cần thiết khi di
chuyển lên giảng đài: vừa mất thời giờ, vừa gây chia trí cho người
khác.

 

5) Thứ năm, thực hành này
gây khó khăn cho một số cô dâu chú rể

 

Như thực tế đã chứng minh, không ít cô dâu hay chú rể coi mình như
bị bắt cóc hay ép buộc phải đọc Sách Thánh. Họ vâng phục vì nghĩ
rằng đây là luật lệ hay tập tục của Hội Thánh. Khi biết mình phải
công bố Lời Chúa, trong những ngày chuẩn bị lễ cưới, lẽ ra họ phải
thật bình an để cầu nguyện, dọn mình lãnh nhận Bí tích Hòa giải và
Thánh Thể…[20] thì tâm trạng của họ lại nặng nề, lo âu và bối
rối.[21] Rồi trong chính Thánh lễ, một số cô dâu chú rể run cầm cập
khi đọc Sách Thánh, cố làm sao chống trọi cho qua “gánh nặng” này.
Điều này hoàn toàn không phải là thái độ và tư thế của người công bố
Lời Chúa.

 

 

 

[1] Xc. Ủy ban Phụng Tự, Nghi thức Cử hành Hôn nhân, số 29; E. J.
Dwyer, The Sacraments: Pastoral Directory (Dublin: Cahill Limited,
1977), 135; Austin Fleming, Parish Wedding (Chicago: Liturgy
Training Publication, 1987), 28; Paul Covino, “Here Come the Bride
and the Groom – Another Look at Weddings and the Rite of Marriage”
trong Full, Conscious and Active Participation do Michael R.
Prendergrast (ed) (Nxb. Oregon Catholic Pr, 2003), 131.  Việc chọn
lựa Bài đọc Sách Thánh diễn tả vai trò thừa tác của đôi hôn nhân.

 

[2] 1/ St 1,26-28.31a; 2/ St 2,18-24; 3/ St 24,48-51.58-67; 4/ Tb
7,6-14; 5/ Tb 8,4b-8; 6/ Cn 31,10-13.19-20.30-31; 7/ Dc
2,8-10.14.16a; 8,6-7a; 8/ Hc 26,1-4.16-21; 9/ Gr 31,31-32a.33-34a.

 

[3] 1/ Tv 32; 2/ Tv 33; 3/ Tv 102; 4/ Tv 111; 5/ Tv 127; 6/ TV 144;
7/ Tv 148.

 

[4] 1/ Rm 8,31b-35.37-39; 2/ Rm 12,1-2.9-18; 3/ Rm 15,1b-3a.5-7.13;
4/ 1Cr 6,13c-15a.17-20; 5/ 1Cr 12,31—13,8a; 6/ Ep 4,1-6; 7/ Ep
5,2a.21-33; 8/ Pl 4,4-9; Cl 3,12-17; 9/ Dt 13,1-4a.5-6b; 10/ 1Pr
3,1-9; 11/ 1Ga 3,18-24; 12/ 1Ga 4,7-12; 13/ Kh 19,1.5-9a.

 

[5] 1/ Mt 5,1-12a; 2/ Mt 5,13-16; 3/ Mt 7,21.24-29; 4/ Mt 19,3-6; 5/
Mt 22,35-40; 6/ Mc 10,6-9; 7/ Ga 2,1-11; 8/ Ga 15,9-12; 9/ Ga
15,12-16; 10/ Ga 17,20-26.

 

[6] Xc. Nghi thức Cử hành Hôn nhân, số 12-27.

 

[7] Xc. Gioan Phaolô II, Tông Huấn Cộng đồng Gia đình “Familiaris
Consortio”, số 66; Hội đồng Giáo Hoàng về Gia đình, Chuẩn bị Bí tích
Hôn nhân, số 47 và 68.

 

[8] Theo hướng dẫn của sách Nghi thức Cử hành Hôn nhân, trong số bản
văn Kinh Thánh được chọn công bố phải có một bài rõ ràng nói về hôn
nhân được đánh dấu * trong sách.

 

[9] Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 32.

 

[10] Austin Fleming, Parish Wedding, 16.

 

[11] Gioan Phaolô II, Tông Huấn Cộng đồng Gia đình “Familiaris
Consortio”, số 67.

 

[12] Sđd, số 1623.

 

[13] Xc, Gioan PhaolôII, Tông Huấn Cộng đồng Gia đình “Familiaris
Consortio”, số 67; Nghi thức Cử hành Hôn nhân (Hà Nội: Nxb. Tôn
Giáo, 2008), số 34; Dennis c. Smolarski, sj, Seasons, Sacrament and
Sacramental (Chicago: Liturgy Training Publication, 2003), 46-48.

 

[14] Xc. “Giáo dân với các thừa tác vụ” trong Hợp Tuyển Thần Học số
34, Năm thứ XII (2002).

 

[15] Xc. Lucien Deiss, It’s the Lord’ Supper: The Eucharist of
Christians (Collins Liturgical, 1986), 126-127.

[16] Hội đồng Giáo Hoàng về Gia đình, Chuẩn bị Bí tích Hôn nhân (ban
hành ngày 13/05/1996), số 68.

 

[17] Xc. Dennis c. Smolarski, sj, Seasons, Sacrament and
Sacramental, 46-48

 

[18] Xc. Austin Fleming, Parish Wedding, 19-20.

 

[19]  Xc. Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma, các số 336; 335; Nghi lễ
Giám mục, số 65.

 

[20] Xc. Nghi thức Cử hành Hôn nhân, số 18.

 

[21] Xc. Gíao lý Hội Thánh Công giáo, số 1662.

 

 

 

Tác giả: Lm. Giuse Phạm Đình Ái,sss

Nguồn: giaolyductin.net