Tục cưới hỏi của người Mường

Nhà trai phải cử người sang nhà gái để làm cỗ bàn. Mâm bát, nồi niêu cũng phải gánh sang theo người bếp trưởng do nhà trai cử, còn phải chát nhọ nồi đen hết mặt để thể hiện đang lo công việc bếp núc (Như ở Xuân Đài), đồ cưới đã được dẫn đến từ hôm trước để sắp sửa cỗ bàn. Họ phải đem đến một con lợn nhỡ mổ ăn từ chiều hôm trước và một con to mổ ăn hôm sau, hôm cưới chính.

Trước khi dẫn đầu đoàn đón dâu ông Mờ cầm con dao nhọn, mũi dao cắm miếng gừng và nói thầm vào con dao “Khi đi không gặp người cản trở, con rắn không ra; con hươu nai không chắn đường; con ong không bay qua để đi được”.

Đoàn nhà trai đón dâu dẫn theo đồ cưới như sau:

Hai tấm vải

Hai vòng bạc

Một con trâu dắt theo

Hai mươi đồng bạc trắng

Một đôi yếm có màu vàng và đỏ

Ngoài ra còn gánh đến 4 mâm xôi, 40 bánh dày, 100 lá trầu, 1 buồng cau, 2 con gà để lễ tổ, 2 đôi gà dành cho bên ngoại nhà vợ. Đồ lễ thường có thêm một đôi vòng bạc đưa tay cho bố mẹ vợ, 20 vuông vải “khô ráo” và buộc vía cho chị gái cô dâu.

Ông Mờ cho đến rể chính, rể bạn (phù rể) đều mặc áo dài thâm. Nam cầm ô, nữ đội nón ba tầm. Người Mường kiêng bố mẹ hoặc anh chị của bố mẹ đi đón dâu cho con cháu.

Đoàn đón dâu đến nhà gái được các cô bên nhà gái chàm đuống ở trước cầu thang để chào mừng. Chú rể leo lên cầu thang bị đám con gái phía nhà gái té nước như mưa. Chàng rể phải che ô tránh ướt.

Nhà gái cử người hát rang để chúc tụng, chúc rượu. Đặt mâm không ở giữa nhà gái để những người được mời uống rượu đặt tiền mừng vào cái đĩa bên cạnh đĩa trầu cau.. Rể chính và rể bạn rót rượu mời từng người. Sau đó ông mờ nhà trai đặt cơi trầu xin đón dâu. Nhà gái đưa ra trước mặt ông Mờ của hồi môn để cô dâu về nhà chồng, trong đó có cả bát đĩa, mâm đồng, nồi niêu, ấm chén.

Ở xã Kim Thượng khi kén rể, nhà gái chuẩn bị chậu nước cho rửa chân tượng trưng lấy mát mẻ để sinh đẻ nhiều. Anh rể bạn (phù rể) được nhà gái đưa cho 2 hào bạc trắng có lời trước để họ lấy nhọ nồi trộn mỡ bôi dầy lên mặt, càng khó rửa càng tốt. Ông Mờ dẫn chú rể quỳ trước bàn thờ gia tiên lễ 4 lễ. Phù rể cũng quỳ vái theo. Vì thế phù rể còn được gọi là rể thứ, rể bạn. Sau đó có cơi trầu rể mang dăm ba hào được chú rể đem đến lễ mâm gốc, mâm cái, mâm cao nhất của nội ngoại nhà gái ở sát cửa sổ gian gốc, gian thờ. Đại diện nhà gái nhận lễ đem kính gia tiên xong nhà gái mới bắt đầu bày cỗ cưới ra ăn. Gian gốc bày ba bốn mâm cỗ gốc cho những người vai trên ngồi ăn suốt mấy ngày liền không bao giờ dọn mâm bát, để suốt đêm ngày, hết thức ăn lại tiếp thêm; người ăn cỗ gốc mệt thì chợp mắt ngả lưng tại chỗ thức dậy ăn uống tiếp.

Ngay từ khi hỏi cưới, ông Mờ đã được nhà gái thông báo cô dâu sẽ có bao nhiêu của hồi môn để chuẩn bị người và đòn khiêng, khiêng của hồi môn theo cô dâu về nhà chồng. Của hồi môn cho bố mẹ chồng: Một chiếu, một chăn, một đệm, hai gối. Nếu chồng có bố nuôi thì cô dâu cũng lo cho bố nuôi như bố mẹ chồng.  Người Mường Phú Thọ thường có nhiều bố mẹ.

– Bố mẹ nuôi còn gọi là bố mẹ mày,con nuôi là con mày, tức là con ăn xin ăn mày được.

– Ông mờ là ông mối.

– Bố thuốc là người cứu chữa mình khỏi bệnh

Họ gắn bó sống tết chết giỗ với các bố mẹ trên. Khi bố mẹ mày, bố mờ, bố thuốc chết cũng phải để tang, cắt tóc trả ơn, con đẻ cắt tóc trước con mày, con mờ, con thuốc vào cắt sau.

Ở làng Trầm (xã Tân Lập) của hồi môn về nhà chồng có: 30 bát, 30 đĩa, 1 chậu cho bố mẹ chồng, 1 chiếu chải giường thờ ở nhà chồng, 1 đôi chăn thờ cho bố mẹ chồng.

Ở làng Tất Thắng có lệ nhà trai khi đón dâu phải dắt sang giao cho nhà vãi một con trâu mới biết bừa. Khi vợ chồng ra ở riêng bố mẹ vợ cho lại con rể, con gái con trâu ấy, đám cưới ở đây ngoài thịt, rượu, gạo, nhà trai còn phải nộp 40 đồng bạc trắng để vào đĩa đặt lên bàn thờ nhà gái. Nếu đủ tiền nộp hôm cưới thì ba hôm sau cô dâu mới chính thức về nhà chồng. Nếu không cứ phải chờ đến lúc có tiền nhà trai mới chính thức được cô con dâu về ở nhà mình.

Trong đám cưới ở vùng thượng huyện Thanh Sơn nhà trai mới phải cử người xuống nhà gái nấu nướng làm cỗ bàn, còn vùng hạ huyện nhà gái tự làm lấy.

Cô dâu khi về nhà chồng phải mang theo con dao, nắm cơm, cái ớp (dỏ đeo cạnh người). Dọc đường đi, đôi ba lần cô dâu dở cơm nắm ra ăn, về nhà chồng vẫn phải ăn cơm nắm mang theo tượng trưng cho việc mới về nhà chồng chưa làm ra cơm gạo vẫn phải ăn cơm gạo của nhà vãi.

Cô dâu về gần đến nhà, nhà trai chàm đuống chào đón. Khi dâu rể làm lễ gia tiên xong mới ngừng tiếng đuống.

Ở Xuân Sơn khi cô dâu về đến cửa chính thì một bà già có phúc đức nhà trai nhờ trước hai tay cầm hai nắm xôi chúc nhau rồi đưa cho cô dâu chú rể một nắm, cho họ cầm lấy phúc rồi đưa cho người nhà cất đi.

Khi đón dâu về có lễ mắc màn cúng xong cho mươi đứa trẻ cả trai và gái ùa vào buồng cô dâu để lấy may.

Tối đầu cô dâu ngủ cùng ba cô bạn phù dâu gọi là tục ngủ bạn, sáng sau chồng cùng các bạn trai đưa cô dâu về nhà vãi, đến tối lại được chồng cùng các bạn đón về. Ba ngày sau cô dâu lại được về ngủ ở nhà vãi 1 đêm.

Nói chung cô dâu Mường mới cưới không được ngủ với chồng. Cô dâu phải ngủ với bà tốt số đã có nhiều con trai và gái. Cưới xong cô dâu đi đi lại lại về nhà mình 3 lượt  mới chính thức được về ở nhà mình.

Có nơi sau cưới cô dâu về ở vãi ba hôm.Trong vòng một năm đi đi về về đến khi có con đầu mới về ở hẳn nhà mình.

Con trai Mường lấy vợ dăm ba năm đầu phải đi ở rể cho nhà bố vợ tháng 15 ngày.

Tết đến con rể phải lễ tết bố vợ với gà, rượu, bánh trưng, bánh rợm. Hàn thực mồng 3-3 phải biếu quà nhà bố vợ bánh kiến, tháng 10 cũng biếu nhà gái gánh nặng bánh gai, bánh trưng, bánh rợm.

Người ở rể đời phải bỏ họ mình, theo họ vợ, con cái đẻ ra cũng theo họ ngoại.

Con gái lấy chồng đương nhiên phải bỏ họ mình theo họ chồng.

Nếu vợ chồng không có con thì lấy con út chồng làm người thừa tự, quyền thừa kế của anh chị và phải cúng giỗ anh chị.

Nguyễn Hữu Nhàn