Nón lá Huế – Thương hiệu văn hoá đặc sắc

Nói đến loại sản phẩm rực rỡ của các làng nghề truyền thống cuội nguồn ở Huế, có lẽ rằng nón lá được nhiều người biết đến hơn cả. Hàng trăm năm nay, nón lá không chỉ là đồ vật thân thiện che nắng, che mưa gắn bó với đời sống hàng ngày của mỗi người dân Huế, mà hơn thế, nó đã trở thành một đặc sản nổi tiếng văn hóa truyền thống “ nón bài thơ ” gắn với hình tượng của người con gái Huế :

Gió cầu vương áo nàng thôn nữ/Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ…”(Đông Hồ).

Nghề làm nón lá hình thành và tăng trưởng ở Huế từ hàng trăm năm nay, với rất nhiều làng nón nổi tiếng như : Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây, Kim Long, Sịa … Ngày nay nghề làm nón lá tuy không thịnh vượng như xưa, nhưng vẫn còn đó những làng nghề, những người thợ tài hoa bí mật gắn bó với nghề chằm nón. Mỗi năm các làng nghề làm nón ở Huế cho ra thị trường hàng triệu chiếc nón, không riêng gì phân phối nhu yếu tiêu thụ tại chỗ, mà còn là món quà lưu niệm rực rỡ cho hành khách bốn phương khi đến Huế .
Nón lá Huế, đặc biệt quan trọng là nón bài thơ được nhiều hành khách ưu thích bởi sự thanh thoát nhẹ nhàng, không riêng gì là chiếc nón đơn thuần mà là một tác phẩm nghệ thuật và thẩm mỹ thực sự. Để có được chiếc nón vừa lòng đưa ra thị trường, các nghệ nhân làm nón Huế phải qua nhiều quy trình tỉ mỉ, yên cầu sự cần mẫn, khôn khéo của đôi tay người thợ. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, đến chằm hoàn thành xong chiếc nón và sau cuối là đánh bóng dữ gìn và bảo vệ, đưa ra thị trường .
Vì thế, trong các làng nghề làm nón, sự phân công lao động được bộc lộ rất đơn cử, thợ làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón … mỗi người một việc rất chuyên nghiệp. Làm khung chuốt vành là quy trình tiên phong quyết định hành động độ khum, độ tròn, hình dáng, kích cỡ của chiếc nón. Khung nón được làm bằng gỗ nhẹ, có mái cong đều với nhiều kích cỡ, thường khung nón được làm một lần dùng vài chục năm, nếu không có sự biến hóa mẫu mã theo nhu yếu thị trường. Vành nón được làm bằng thân cây lồ ô, cây mung có rất nhiều ở Huế, được chẻ, chuốt tròn thanh thoát, mỗi chiếc nón từ 15 – 16 vành, mà lâu nay nhiều người vẫn ví như “ 16 vành trăng ” .
Lá làm nón ở Huế cũng là loại lá nón thông thường, nhưng được tuyển lựa giải quyết và xử lý qua nhiều khâu, hấp, sấy, phơi sương, ủi phẳng sao cho mặt lá giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn. Tiếp đến là quy trình lợp lá, đặt hoa văn, hình tượng giữa hai lớp lá sao cho cân đối hài hòa trong khoảng trống của chiếc nón, để khi soi lên trước ánh mặt trời, các hoa văn hình tượng hiện rõ cân đối. Biểu tượng ẩn hiện trong nón lá bài thơ thường là hình ảnh cầu Trường Tiền, núi Ngự Bình, Ngọ Môn, Phu Văn Lâu, cầu ngói Thanh Toàn … Đi kèm theo các hình tượng là 1 số ít câu thơ nổi tiếng viết về Huế được cắt bằng giấy bóng ngũ sắc, điển hình nổi bật giữa nền xanh trắng của lá nón .

Chằm lá vào vành là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi người thợ phải có sự khéo léo để đường kim, mũi cước thẳng đều, mềm mại theo độ cong của vành nón. Công đoạn này thường do người phụ nữ thực hiện, vì thế ở các làng nón, con gái được dạy nghề rất sớm, 14 – 15 tuổi đã thành thạo nghề. Nón lá sau khi hoàn tất được quét một lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn, để tăng độ bóng, độ bền, chống thấm nước rồi mới đưa ra chợ bán.

Chợ Huế nào cũng có hàng nón, từ các chợ lớn như Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự … đến các chợ nhỏ như Sịa, Phò Trạch, ở đâu cũng hoàn toàn có thể mua được chiếc nón lá Huế. Đặc biệt chợ Dạ Lê là chợ chuyên bán nón được duy trì từ hàng trăm năm nay, là đầu mối lớn để nón Huế vào Nam, ra Bắc .

Du khách quốc tế thú vị đi dạo dưới những giàn nón Huế ( ảnh : baodulich )

Du lịch phát triển mạnh ở Huế, nón lá trở thành mặt hàng lưu niệm mang nét văn hóa đặc sắc của Huế được du khách ưa chuộng. Rất nhiều du khách đã về tận các làng nón để được tận mắt chứng kiến và tham gia vào các công đoạn của nghề làm nón. Không ít người đã thực sự bất ngờ và thích thú khi được người thợ nón lưu ảnh, tên của mình trên chiếc nón bài thơ mang về làm kỷ niệm.

Chị Nguyễn Thị Thúy – một nghệ nhân làm nón nổi tiếng ở làng nón Phú Cam, người đã từng được mời sang Nhật Bản biểu diển và triển lãm nghề làm nón Huế, cho biết : “ Không ngờ nón Huế mình lại được nhiều người biết và ưa thích như vậy, cứ mỗi lần trình diễn chằm nón cho hành khách xem tôi tự hào lắm … Quả thật, trên đường phố Huế, tôi đã gặp không ít nữ hành khách quốc tế rất duyên dáng với chiếc nón Huế, không thua kém gì con gái Huế, cho nên vì thế nhiều người cho rằng nón bài thơ là một nét duyên của Huế. Chính vì thế, nón bài thơ Huế cũng là một loại sản phẩm tiếp thị hình ảnh Huế thoáng đãng mà hiệu suất cao nhất trong số các loại sản phẩm truyền thống cuội nguồn Huế ” .

Cầm chiếc nón, ta không chỉ bắt gặp Huế trên từng đường kim, mũi cước của người thợ nón Huế, mà còn gặp cả chiều sâu văn hóa Huế qua hình ảnh biểu tượng của Huế, qua những câu thơ đi cùng năm tháng với Huế: “… Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu…”(Thu Bồn); hay “… Sông Hương hoa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngã nghiêng say…”(Nguyễn Trọng Tạo)… Chính vì thế nón lá Huế không còn là sản phẩm hàng hóa đơn thuần, mà thực sự đã trở thành một thương hiệu văn hóa đặc sắc. Đây cũng là sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầu tiên được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý vào tháng 8/2010.

Dẫu giờ đây, trên đường phố Huế, nón lá không còn rợp bóng như thời xưa mỗi buổi tan trường, nhưng nó đã trở thành một nét văn hóa truyền thống, một nét duyên không hề thiếu trong đời sống văn hóa truyền thống Huế. Vì thế thời hạn qua, các cấp, ngành công dụng ở Thừa Thiên-Huế đã đưa ra nhiều giải pháp để bảo tồn và Phục hồi, tăng trưởng nghề nón truyền thống lịch sử như, tương hỗ nguồn vốn, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, gắn nghề chằm nón với du lịch tiệc tùng qua các kỳ Festival làng nghề Huế. / .