Vài nét về tổng chi tiêu hộ gia đình trong khảo sát mức sống dân cư

Theo hiệu quả tìm hiểu khảo sát mức sống của TCTK, cùng với sự tăng trưởng không ngừng của xã hội, chi tiêu đời sống của dân cư có xu thế tăng nhanh. Năm 2004 chi tiêu đời sống trung bình 1 hộ 1 tháng chỉ vào khoảng chừng 1,5 triệu đồng, đến năm 2010 là khoảng chừng 4,5 triệu đồng và năm nay lên tới 7,6 triệu đồng .Qua 12 năm, chi tiêu tăng thêm 6,1 triệu đồng, tăng giao động 386 %, cùng với sự ngày càng tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn .
 

Năm 2004, chi trung bình hộ một tháng ở nông thôn là 1,2 triệu đồng và thành thị là 2,5 triệu đồng ; năm 2010, mức chi tiêu này tăng lên lần lượt là 3,5 triệu đồng và 6,7 triệu đồng ( chênh lệch giữa hai khu vực là 3,2 triệu đồng ), năm năm nay là 6,1 triệu đồng và 10,8 triệu đồng ( mức chênh lệch tăng lên thành 4,7 triệu đồng ) .

Chi tiêu cho giáo dục

Chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học trong 12 tháng giai đoạn 2010-2016 tăng dần qua các năm. Năm 2010, một người đi học chi tiêu bình quân khoảng 3 triệu đồng cho việc đi học trong 12 tháng; thì đến năm 2016, chi tiêu này là gần 5,5 triệu đồng/người, tương ứng tăng 80,3%. Điều này cho thấy, đầu tư của các hộ gia đình vào giáo dục đào tạo ngày càng tăng mạnh, phản ánh sự quan tâm của hộ gia đình tới việc học hành của thế hệ trẻ; đồng thời cho thấy chất lượng đời sống của các gia đình Việt Nam đang dần đượcnâng cao.

Xét về

sự khác biệt giữa thànhthị và nông thôn ,sự chênh lệch giữa2 khu vực này ngày cànglớn hơn, đặc biệt quan trọng trongkhoảng năm năm trướcđến năm nay .Năm 2010, chênh lệch giữa thànhthị và nông thônkhoảng 3 triệu đồng / người / năm ; tuy nhiên đến năm năm nay, mức chi cho giáo dục ở thành thị đã gấp gần 2,5 lần so với mức chiở nông thôn. Điều nàycó thể do điềukiện kinh tế của hộ gia đìnhở thànhthị đang ngày càng tăng lên, phânhóa giàu nghèo rõ rệt, do vậy việc đầu tư vào hoạt động giáo dục của các thành viên trong gia đình ở khu vựcthànhthị cũng tănglên đáng kể .Một mặtkhác, ở nông thôn, Chínhphủ đangáp dụngcác chủ trương miễn giảmhọc phí cho vùngđặc biệtkhó khăn để khuyếnkhích ngườidân vùng này tham giahọc tập ,do vậy sự chênh lệch càng lớn .

Xét

thực

tế chi cho giáo dục theo vùng miền, ta thấy có sự chênh lệch tương đối lớn giữa 6 vùng kinh tế. Vùngcó chi cho giáo dục đào tạo cao nhất là Đông Nam Bộ, với mức chi là gần 9,4 triệu đồng / người trong 12 tháng ; vùng có đầu tư cho giáo dục thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc, với mức đầu tư chỉ khoảng 2 ,6 triệuđồng / người. Mức chi phân biệt giữa các vùng cũng phản ánh được trình độ học vấn có sự phân hóa theo vùng .Theo đó, ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, trình độ học vấn cao nhất đạt được của người dân vẫn còn thấp :11,4% chưa bao giờ đến trường; 11,5% không có bằng cấp và chỉ có 7,6% có bằng cao đẳng, đại học trở lên .

Xét về chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học trong 12 tháng, số liệu KSMS cho thấy ,sự chênh lệch tương đối lớn của chi này giữa hộ gia đình có chủ hộ là dân tộc Kinh và hộ gia đình có chủ hộ dân tộc khác (cao hơn gấp khoảng 3 lần).

Trong

tổng

số tiền chi chogiáo dục ,chủyếulà chi cho học phí( chiếm 34,4 % )và những khoản chikhác ( chiếm 23,4 % ) .Các khoản chinày thườnglà những ngân sáchăn ở ,đi lại, ngân sáchnàyđặc biệt quan trọngrấtquantrọngđốivớisinhviên ,học viênđi họcxa nhà và phảiở trọ .Các khoản chi còn lạichiếmtỷ trọngkhá thấptrong tổngchi tiêu chogiáodục ,thấpnhấtlà chi cho quầnáo đồngphục .

Chi tiêu cho y tế

Số liệu Khảo sát Mức sống dân cư năm năm nay cho thấy, chi cho y tế và chăm nom sức khỏe thể chất bình quân nhân

khẩu một tháng so với những hộ không tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện là 92,2 nghìn đồng / tháng, trong khi đó so với những hộ tham gia là 131 nghìn đồng / tháng .
 

cũng theo

số liệu Khảo sát mức sống dâncư nămnăm nay ,cósự chênhlệch không nhỏgiữaviệc chi khám chữa bệnh củanhữnghộ gia đình tham gia bảo hiểmy tếtự nguyện vớihộ không thamgia .Cụthể ,chi khám chữa bệnh bình quân nhân khẩu trong một tháng của nhóm những hộ không tham gia bảo hiểm y tế tự nguyệnlà 87,6 nghìn đồng, trong khi của nhóm những hộ tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện là 110,4 nghìn đồng .

Chi tiêu lương thực, thực phẩm

Chi tiêu cho đời sống, chi cho ăn, uống, hút của dân cư chiếm tỷ lệ lớn trên 47% ( năm 2012 và 2008 lần lượtlà 2 năm có cơ cấu chi cho ăn, uống ,hút cao nhấtvà thấp nhất vớicơ cấu chi lần lượtlà 52,5 %và 47,1 % ) ; chikhông phải ăn, uống, hút chiếm tỷ lệ trên 41% trong tổng chi tiêu .

 

Hình 1. Cơ cấu các khoản chi tiêu cho đời sống

Vài nét về tổng chi tiêu hộ gia đình trong khảo sát mức sống dân cư
 

Trong những khoản chi cho nhà hàng siêu thị, hút thì chi cho những mẫu sản phẩm thực phẩm chiếm tỷ suất cao nhất. Đối với mẫu sản phẩm lương thực, nhóm 1 ( nghèo nhất ) có tỷ suất chi cao nhất. Nhóm 5 ( giàu nhất ) chi tiêu cho nhà hàng ngoài gia đình chiếm tỷ suất cao nhất so với những nhóm khác .

Trong

khoảng thời gian từ 2006-2016, tổng chi tiêu cho đời sống bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng có sự tăng rõ rệt từ 460,4 nghìn đồng năm 2006 lên 2.015,7 nghìn đồng năm 2016, tốc độ tăng 4,4 lần. Trong tổngchi tiêu cho đời sống, chi cho các mặt hàng ăn, uống, hút vẫn lớn hơn chi cho các mặt hàng không phải ăn, uống, hút.

Năm năm nay chi tiêu trung bình 1 nhân khẩu 1 tháng cho thực phẩm là 567,5 nghìn đồng / người / tháng ; trong đó khu vực thành thị là 743,5 nghìn đồng / người / tháng, khu vực nông thôn là 485,2 nghìn đồng / người / tháng .

Năm năm nay

so

với năm 2006, chi cho ăn ,

uống ,

hút trung bình

1 nhânkhẩu1 tháng tăng gần 4,4 lần ;trong đónhóm hàng thực phẩm tăng 4,4 lần ;ănuống ngoài gia đình tăng 7,4 lần ; nhóm hàng lương thực tăng 2,4lần ;nhóm hàng uốngvàhút tăng 3,4 lần ; nhóm hàng chất đốt tăng 2,9lần .

Theo 5 nhóm thu nhập, chi cho nhà hàng siêu thị, hút trung bình 1 nhân khẩu 1 tháng tăng dần theo những năm. Năm năm nay so với năm 2006, vận tốc chi cho ăn, uống, hút trung bình 1 nhân khẩu 1 tháng của nhóm 1 ( nghèo nhất ) tăng 4,3 lần ; của nhóm 5 ( giàu nhất ) tăng 3,8 lần ; vận tốc tăng chung là 4,2 lần .

Trong

các năm 2006 – năm nay ,chi tiêu dùng lương thực, thực phẩm trung bình1 nhânkhẩu 1 tháng tăng từ 229,3 nghìn đồng năm 2006 lên 969 nghìn đồng năm năm nay, mức tăng gấp 4,2 lần. Khu vực thành thị có mức tiêu dùng lương thực, thực phẩmcao hơn khu vực nông thôn .Mức tăngchi tiêu dùng lương thực, thực phẩm năm năm nay so với năm 2006 của khu vực thành thị là 3,9 lần ; của khu vực nông thôn là 4,2 lần .

Đầu tư đồ dùng lâu bền

Trị

giá

đồ dùng lâu bền mua mới bình quân một hộ trong 12 tháng giai đoạn 2010 – năm nay liên tục tăng nhanh .Trịgiá nàynăm 2010 đạt 11,2 triệu đồngvà đến năm năm nayđã đạt19 triệu đồng, tăng7 triệu đồngso với năm 2010, tươngứng tăng 67,78 % ,cho thấynhu cầu đầu tư vàođồ dùnglâu bền của các hộ dân cư ngày cànggiatăng, đời sống của người dân đang được nâng cao về chất lượng .

Trị

giá

đồ dùng lâu bền mua mới bình quân một hộ trong 12 tháng cũng có sự phân biệt rõ nét giữa khu vựcthành thị và nông thôn. Khoảng cách giữa thành thị và nông thôn càng ngày càng mở rộng, đặc biệt là trong năm năm nay. Năm năm nay, trị giá này ở khu vực thành thị là 28 triệu đồng, gấp đôi khu vực nông thôn ( 14,8 triệu đồng ) .

Trị

giá mua mới đồ dùng lâu bền bình quân một hộ có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng kinh tế. Trị giá này cao nhất ở khu vực Đông Nam bộ (đạt 27.355 nghìn đồng) và thấp nhất ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (đạt 15.246 nghìn đồng)và BắcTrung bộ và Duyên hải miềnTrung (15.295 nghìn đồng).

Bên cạnh những yếu tố khu vực và vùng miền, trị giá mua mới vật dụng lâu bền của hộ trong 12 tháng cũng

có sự độc lạ theo từng đặc thù của bản thân hộ gia đình như : Trình độ giáo dục cao nhất của chủ hộ, dân tộc bản địa của chủ hộ, thực trạng hôn nhân gia đình của chủ hộ và quy mô số người sống trong hộ gia đình .
 

Theo trình độ giáo dục cao nhất của chủ hộ gia đình, chi tiêu của hộ cho vật dụng lâu bền trong 12 tháng qua cũng có sự độc lạ đáng kể. Mức chi tiêu này thấp nhất ở nhóm những hộ có chủ hộ chưa tốt nghiệp tiểu học và cao nhất ở nhóm cao đẳng trở lên .

Phân theo dân tộc của chủ hộ, trị giá đồ dùng lâu bền mua mới của hộ gia đình có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm hộ có chủ hộ dân tộc Kinh và nhóm hộ gia đình có chủ hộ dân tộc khác. Năm 2016, hộ gia đình dân tộc Kinh đầu tư 19.798 nghìn đồng vào đồ dùng lâu bền, trong khi đó hộ gia đình dân tộc khác đầu tư 13.881 triệu đồng, nhóm hộ dân tộc Kinh đầu tư cao hơn nhóm khác là 5.917 nghìn đồng, tương ứng 42,6%. Phân theo tình trạng hôn nhân của chủ hộ gia đình, trị giá mua mới đồ dùng lâu bền trong hộ gia đình không có sự khác biệt nhiều giữa các nhóm gia đình mà chủ hộ chưa có vợ/chồng, góa, Ly hôn/ly thân. Tuy nhiên mức chi tiêu cho đồ dùng lâu bền đặc biệt cao ở nhóm hộ gia đình mà chủ hộ đang có vợ/có chồng. Mức chi ở nhóm này đạt 20.255 nghìn đồng trong năm 2016 và tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2010-2016. Có thể nhận thấy rất rõ việc đầu tư cho đồ dùng lâu bền phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng hôn nhân của chủ hộ. Một gia đình có đầy đủ cả vợ cả chồng thường chú trọng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống hơn, đầu tư mạnh tay hơn vào đồ dùng gia đình hơn là các hộ gia đình mà chủ hộ chưa có vợ/chồng, góa hoặc ly 

hôn / ly thân .

Phân theo

quy mô số người tronghộ gia đình ,trị giámua mới đồ dùnglâu bền trung bìnhmột hộ gia đình trong vòng 12 tháng qua cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm gia đình có từ bốn người trở lên và nhómhộ gia đìnhcó dướibốn người .Những hộ gia đình đông người, thườngcó đủ cha mẹ, concái thì đầu tư nhiều hơn cho đồ dùng lâu bền, nhằm hoàn thiệnvà ngày càng nâng cao điều kiện sống củagia đình. Những hộ giađìnhít ngườihơn thì đầu tư ít hơn cho khoản chi tiêunày ,cụ thể :Quy mô hộ gia đình2 ngườiso với6 ngườinăm 2010là 8.012 nghìn đồngso với 13.247 nghìn đồng ;năm năm naylà 9.108 nghìn đồngso với 25.457 nghìn đồng .

Chi tiêu cho nhà ở, điện nước, rác thải

Nhu cầu nhà ở tại các thành thị đang ngày một tăng, các thành phố lớn và các khu công nghiệp rất đông dân cư nên nhu cầu về nhà ở ,điện nước và vệ sinh có nhu cầu rất cao. Theo số liệu của Khảo sát mức sống hộ gia đình, mức chi bình quân 1 người một tháng có sự chênh lệnh nhiều giữa thành thị và nông thôn, năm 2016 là 98,5 nghìn đồng so với 29,4 nghìn đồng, cao hơn 3,3% năm 2010. Nhưng càng ngày khoảng cách mức sống, chi tiêu của thành thị rút ngắn so với nông thôn. Cụ thể, năm 2016, chênh lệch mức chi tiêu giữa thành thị đạt 240,8 nghìn đồng so với mức chi tiêu nông thôn đạt 117,3 nghìn đồng, rút ngắn còn 2,1%.

Sự chênh lệch rõ rệtkhi quan sát cấp vùng, vùng Đông Bắc Bộ có cơ cấu chi tiêu về điện nước và vệ sinh cao nhất cả nước, tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng và thấp nhất trong 6 vùng là Tây Nguyên. Khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có sự chuyển mình rõ rệt qua các năm từ năm 2010-2016, cơ cấu chi tiêu cho điện nước và vệ sinh của vùng này trong năm 2016 cao hơn 5,2% so với năm 2010. Điều đó cho thấy ,Trung du miền núi phía Bắc đang trên đà phát triển, tình trạng du canh di cư đã dần cải thiện, đồng bào đã với an cư lạc nghiệp, nhà ở ổn định và vì thế tiếp cận điện, nước với hộ vùng này được nâng cao.

Trong

Khảo sát MSDC có thu thập một số thông tin về nhà ở (kết cấu nhà, diện tích ở…), điều kiện sinh hoạt (nguồn nước sử dụng, nguồn điện, loại hố xí sử dụng…). Năm 2016, chi tiêu về nhà ở, điện nước và vệ sinh của nhóm giàu nhất cao gấp 7,1 lần của nhóm hộ nghèo nhất (hệ số này năm 2014 là 8,1 lần, năm 2012 là 7,2 lần, năm 2010 là 10,9 lần).

Nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh, Hoa chiếm 85,4% dân số cả nước, dân tộc thiểu số chiếm 14,6% dân số cả nước; Nhóm dân tộc Kinh, Hoa sinh sống thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố. Đồng bào dântộc thiểu số cư trú chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích của cả nước. Do xuất phát điểm của vùng dân tộc thiểu số và miền núi thấp, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, chất lượng nguồn nhân lực và mặt bằng dân trí thấp nên gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư; thiếu việc làm, đói nghèo, thiên tai, bệnh tật… Từ đó, làm nảy sinh một số vấn đề bức xúc trong đồng bào dân tộc thiểu số như: Di cư tự phát, thiếu đấtở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… Bên cạnh đó, đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Thu nhập bình quân của hộ đồng bào dân tộc thiểu số nhiều nơi chỉ bằng 40-50% bình quân thu nhập trong khu vực. Tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số chiếm 14,6%, nhưng tỷ lệ hộ nghèo chiếm 52,7% số hộ nghèo của cả nước.

Tính chung cả nước, chi tiêu theo giá hiện hành năm 2016 bình quân 1 người 1 tháng đạt 156,63 nghìn đồng, tăng gấp 3,1 lần so với năm 2010. Chi nhà ở, điện nước và vệ sinh bình quân đầu người của nhóm Kinh, Hoa năm 2016 đạt 176,3 nghìn đồng, tăng gấp 3,1 lần so với năm 2010./.

 

( Nguồn : Tổ nghiên cứu và phân tích và Dự báo Thống kê của TCTK )