Tài chính y tế

Tài chính y tế là một trong những tính năng cơ bản của mạng lưới hệ thống y tế. Tài chính y tế gồm có lôi cuốn và tập trung chuyên sâu nguồn tiền, sử dụng nguồn tiền đó chi trả cho những dịch vụ y tế để phân phối nhu yếu của chăm nom sức khỏe thể chất của mọi người, từ cá thể cho đến toàn xã hội. Phương cách lôi cuốn và sử dụng nguồn tiền đó của mỗi nước tác động ảnh hưởng đến loại dịch vụ được cung ứng, năng lực tiếp cận của người dân tới những dịch vụ và năng lực chi trả cho những dịch vụ, do đó là yếu tố then chốt để đạt được Bao phủ Sức khỏe Toàn dân ( UHC ) .

Các nước trên thế giới dùng nhiều cách khác nhau để thu hút nguồn tiền, thường được chia ra thành “công” và “tư”. Khi nguồn tiền dùng để chi trả cho chăm sóc sức khỏe đến từ thuế chính phủ, hoặc từ bảo hiểm y tế xã hội, thì được gọi là tài chính công. Nếu chi trả cho chăm sóc sức khỏe lại sử dụng nguồn tiền đến từ hộ gia đình hoặc tiền trả trực tiếp của bệnh nhân, hoặc từ bảo hiểm y tế tư nhân, thì goi là tài chính tư. Tài chính tư dựa vào tiền chi trả trực tiếp có thể làm hạn chế sự tiếp cận dịch vụ y tế khi người dân cần và đẩy các hộ gia đình vào nguy cơ nghèo đói. Tài chính công cho phép thu hút nguồn tiền tùy vào khả năng đóng góp của hộ gia đình và chi trả các dịch vụ y tế dựa trên nhu cầu, cho nên có thể bảo vệ được các hộ gia đình khỏi khó khăn về tài chính.

Bảo hiểm y tế xã hội ở Việt Nam được thành lập từ năm 1992, và hiện nay được coi là phương cách chính của tài chính công cho chăm sóc sức khỏe. Chính phủ sử dụng nguồn thuế để trợ cấp những nhóm người dễ tổn thương như người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, và người già trên 80 tuổi. Bảo hiểm y tế hiện tại bao phủ được khoảng 87% dân số. Việc sử dụng nguồn quỹ một cách công bằng và hiệu quả thông qua một phương án chi trả có tính chiến lược là một việc cần phải làm. Chi trả từ tiền túi cho dịch vụ y tế đã có giảm nhưng còn cao, và được tính vào khoảng 41% tổng chi tiêu y tế (2016).