Phụ nữ vùng cao: Nỗ lực vượt khỏi “hàng gai thép”

Bất hạnh từ cuộc sống “méo mó”

Trong báo cáo giải trình “ Tóm tắt chủ trương : Các yếu tố giới trong những dân tộc thiểu số Nước Ta 2019 ” cho thấy, tỷ suất phụ nữ dân tộc thiểu số lại bị trấn áp hành vi và đấm đá bạo lực kinh tế tài chính cao hơn so với mức chung của cả nước và phụ nữ dân tộc bản địa Kinh. Đáng nói, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tin rằng mình không bị đấm đá bạo lực nhiều như phụ nữ Kinh và có xu thế gật đầu việc bị đấm đá bạo lực bởi chồng / bạn tình. Rõ ràng, dù cuộc sống của phụ nữ dân tộc thiểu số lúc bấy giờ đã cải tổ hơn rất nhiều nhưng những mặt tối của hủ tục vẫn còn sống sót, hằn sâu trong tiềm thức của những người phụ nữ vùng cao. Chẳng hiếm thấy những phận phụ nữ oằn mình chống chịu với những hủ tục khắc nghiệt, áp đặt lên số phận họ và duy trì từ bao đời. Xưa nay người ta vẫn thường nhắc đến hủ tục như một phép tắc bất dịch và khi cố đổi khác lại gặp phải lẽ “ phép vua thua lệ làng ”. Bởi vậy, họ vẫn quẩn quanh trong xó nhà bếp, nương rẫy mà chưa khi nào có ý nghĩ sẽ cố vượt ra khỏi thân phận ấy.

Chẳng hạn, theo lý cũ của người Hà Nhì, con dâu không được ngồi ăn chung mâm với những người đàn ông vai trên của chồng như bố, chú, bác, anh chồng. Nếu ăn chung mâm thì không được ngồi ghế, mà phải ngồi xổm hoặc đứng ăn cơm, thức ăn cũng để riêng. Khi chỉ có bố chồng và con dâu thì mỗi người ăn riêng một mâm, cách nhau bức tường đất không ai nhìn thấy ai. Có người dân kể lại, ngày trước, đi bộ đội xa nhà, mỗi lần về phép muốn ăn bữa cơm với vợ cũng khó, vì bố mẹ không cho phép con dâu ngồi cùng mâm. Hủ tục quá lạc hậu, bất công với phụ nữ, nên khi ra ở riêng và có con, nhiều gia đình đã bỏ đi những hủ tục này.

Làm mẹ vốn là thiên chức cao quý được trao cho người phụ nữ. Trong khi nhiều nền văn minh trên quốc tế và trong ngay cả sự tăng trưởng của xã hội luôn dành sự trân trọng, yêu thương, che chở và bảo vệ cho những người phụ nữ sắp sửa trở thành mẹ thì ở những vùng dân tộc thiểu số, điều này lại ngược lại. Trong suốt thời hạn mang thai và hậu sản, nhiều phụ nữ vùng cao phải chịu cảnh sống chui lủi trong những chiếc lán tạm bợ, có khi được tái tạo lại từ những chuồng gia súc. Không vật chất, không thiết bị y tế, không người chăm nom, đỡ đần, với họ cuộc vượt cạn khốn khổ hơn khi nào hết. Tại Tỉnh Lào Cai, em Sần Lò B. vốn là thiếu nữ Hà Nhì xinh đẹp, hiền dịu, nhưng từ khi lấy chồng cô đã phải trải qua những tháng ngày đau khổ. Sau khi chia tay chồng thứ nhất, B. ngỡ đã tìm được niềm hạnh phúc khi “ đi bước nữa ”. Nhưng người chồng thứ hai cũng liên tục say rượu, đánh đập, chửi bới B., rồi bỏ đi với người khác khi B. mang thai được 5 tháng. Tuy B. không bị làng phạt vạ nhưng cô vẫn buộc phải ra lán ngoài làng để sinh con. “ Ngày em sinh con trời mưa cả tuần, lán thì không có điện, em đau lắm nhưng không biết nhờ ai, chỉ có mẹ đẻ đến đưa cơm, nấu cháo, giúp em vượt cạn. Thật may hai mẹ con đều bảo đảm an toàn ” – B. ôm con nhỏ nhớ lại, câu nói nghẹn ngào, đôi mắt đỏ hoe …

Phụ nữ vùng cao: Nỗ lực vượt khỏi “hàng gai thép” ảnh 1

Tảo hôn – một hủ tục lỗi thời khác lâu nay vẫn còn duy trì tại nhiều đồng bào dân tộc thiểu số được nhiều người biết đến. Những bé gái 14, 15 tuổi non nớt, ngây thơ, khung hình chưa triển khai xong đã sớm “ nên vợ, nên chồng ” với những chàng thiếu niên cũng chập chững vào tuổi dậy thì, thành mẹ trẻ con. Cảnh tảo hôn sớm liên tục qua nhiều thế hệ, những cặp vợ chồng, con cháu sẽ được xây những căn nhà nhỏ 30 – 40 mét vuông để cho ra ở riêng. Những căn nhà nhỏ trên bản vùng cao khi nào cũng thừa tiếng khóc của trẻ thơ, tiếng cằn nhằn của những đứa bé làm mẹ. Cứ đà ấy, qua hơn 10 năm thì những thế hệ tiếp theo lại sinh ra.

Có những người phụ nữ cố gắng vùng vẫy vượt ra khỏi “hàng thép gai” quấn lấy thân phận họ ngay từ những ngày sinh ra, cũng có người chấp nhận cảnh sống chung với những hủ tục, cũng chưa từng nghĩ một ngày sẽ vượt ra khỏi những rường cột xã hội khắt khe đó. Điểm chung của họ đều là nạn nhân của sự đói nghèo và lạc hậu. Chúng cứ bám lấy họ, quấn chặt cuộc sống người phụ nữ như màn sương giăng mắc trên miền non cao.

Nỗ lực vượt ra khỏi “dây chằng”

Hiểu để đẩy lùi sự lỗi thời, cải tổ đời sống vật chất và ý thức cho chị em miền núi chỉ có cách xóa đói, giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số nỗ lực vượt lên số phận và định kiến.

Bí thư Chi bộ Trương Thị Luôn (dân tộc Xơ Đăng), “người đàn bà thép” của huyện miền núi Nam Trà My (Quảng Nam) là người đã kiên cường vượt lên, đi ngược lại với những hủ tục, ràng buộc bao đời nay, tiên phong trong những cuộc phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống người dân tộc thiểu số vùng cao. Dù mạnh mẽ, trong những nữ cán bộ miền núi ấy vẫn có niềm riêng khi “dám” chống lại với nếp nghĩ cũ của cộng đồng, thậm chí nếp nghĩ đó có thể là những hủ tục cay nghiệt tồn tại suốt hàng trăm năm. “Mình quyết tâm phải làm thay đổi cuộc sống của dân làng, nên dù khó đến mấy cũng không bỏ cuộc. Bắt đầu từ bản thân mình, mình tiên phong dời đi, làm nhà trước để dân làng thấy được cái lợi, cái ích mà theo chủ trương di dân, ổn định cuộc sống”, chị Luôn trải lòng. Dặm dài theo từng câu chuyện của cô gái Xơ Đăng là hành trình “vực dậy” với những cuộc dân vận không mệt mỏi, ghi dấu ấn về cuộc đổi đời của dân làng Cheng Tông, lần lượt bằng các quy ước “Xóa nạn tảo hôn”; “Cộng đồng Xơ Đăng không vi phạm pháp luật”.

Phụ nữ vùng cao: Nỗ lực vượt khỏi “hàng gai thép” ảnh 2

Với cuộc sống của phụ nữ Hà Nhì ở Tỉnh Lào Cai, muốn tái tạo hủ tục bền vững và kiên cố trước hết cần xóa đói, giảm nghèo vững chắc cho đồng bào Hà Nhì. Vì thế, nhiều phụ nữ đồng bào Hà Nhì đã đưa vào trồng 1 số ít loại cây mới như lê Tai nung, đương quy, khoai tây, tỏi ; tăng nhanh thiết kế xây dựng nông thôn mới giúp đời sống đồng bào dân tộc thiểu số thêm văn minh, tân tiến. Cũng mang ước vọng cho những miền non cao khởi sắc, nhiều phụ nữ đã có những góp sức to lớn, góp phần vào công cuộc xây làng lập xóm, đưa nông thôn mới về miền cao. Làng Achoong ( huyện Tây Giang, Quảng Nam ) trong cuộc di cư lớn đã dừng lại khi được chính bà Amế Chín, 66 tuổi hiến đất để xây làng. Không chỉ ngôi làng này mà hàng loạt diện tích quy hoạnh đất khoảng chừng 30.000 mét vuông phủ rộng cả TT xã, trạm y tế, trường học đều do Amế Chín hiến khuyến mãi, với ước vọng cho miền non cao khởi sắc, góp phần trong công cuộc xoá bỏ thực trạng du canh, du cư. Được hỏi rằng hiến đất rồi, có tiếc không, bà vấn đáp rằng : “ Ôi, tiếc gì đâu con. Đất nhiều cũng để làm gì đâu. Hiến đất cũng là để có được nơi ở mới không thay đổi cho con cháu, cho dân làng sau này. Nếu còn, cũng sẽ hiến để lan rộng ra thêm khoảng trống làng. Thời Amế đã khổ rồi, giờ đây phải khác xưa chứ ! Amế muốn dân cư có một cuộc sống không thay đổi, không phải chịu cảnh lang bạt nay đây, mai đó cùng với nỗi lo núi lở nữa ”. Vẫn là khuôn mặt hằn lên những dấu vết thời hạn, những nhọc nhằn của cuộc sống nơi vùng cao nhưng người phụ nữ ấy mang trong mình ý thức vươn lên, tư duy mới, tân tiến và văn minh.