Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bố dân cư – DanSo.Org

Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bố dân cư

Sự phân bổ dân cư trên một chủ quyền lãnh thổ phụ thuộc vào vào rất nhiều yếu tố và nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập mối quan hệ giữa tỷ lệ dân số với những hình thái kinh tế tài chính. Chẳng hạn một nhà nghiên cứu người Pháp đã đưa ra mối quan hệ này như sau :

Hình thái kinh tế Mật độ (người/km2)
Thời kỳ săn bắt, đánh cá 0,02 – 0,01
Thời kỳ chăn nuôi 0,5 – 2,7
Thời kỳ nông nghiệp 40
Thời kỳ công nghiệp 160
Thời kỳ thương mại trên 160

Nói chung sự phân bổ dân cư là hiệu quả ảnh hưởng tác động tổng hợp của những tác nhân tự nhiên đồng thời cũng có sự ảnh hưởng tác động của những tác nhân khác .

1. Nhân tố tự nhiên

Con người là một bộ phận của tự nhiên, đồng thời lại là một thực thể của xã hội và sự phân bổ dân cư diễn ra trong thực trạng tự nhiên, chịu ảnh hưởng của tự nhiên ở nhiều mức độ khác nhau. Sau đây là một vài yếu tố hầu hết có ảnh hưởng tác động tói sự phân bổ dân cư .

a) Khí hậu

Khí hậu là nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng rõ nét nhất đến sự phân bố dân cư. Nói chung, nơi có khí hậu ấm áp, ôn hòa thường thu hút đông dân cư, còn khí hậu khắc nghiệt (nóng quá hoặc lạnh quá) ít hấp dẫn con người. Trên thực tế, nhân loại tập trung đông nhất ở khu vực ôn đới, sau đó đến khu vực nhiệt đới. Dân cư ở vùng khí hậu nóng ẩm trù mật hơn ở vùng khô hạn. Trong cùng một đới khí hậu, con người ưa thích khí hậu ôn đới hải dương hơn khí hậu ôn đới lục địa. Nhiệt độ quá thấp cũng trở ngại cho việc tập trung dân cư.

b) Nguồn nước

Nguồn nước cũng là tác nhân quan trọng tác động ảnh hưởng tới sự phân bổ dân cư. Mọi hoạt động giải trí sản xuất và đời sống đều cần đến nước. Để bảo vệ nhu yếu sinh hoạt, mỗi người mỗi năm cần khoảng chừng 2.700 m3 nước. Muốn sản xuất 1 kg thức ăn thực vật phải có 2.500 lít nước, 1 kg thịt cần 20.000 lít nước. Hoạt động công nghiệp cũng tiêu thụ rất nhiều nước .

Nói chung, ở đâu có nguồn nước thì ở đó có con người sinh sống. Không phải ngẫu nhiên, các nền văn minh đầu tiên của nhân loại đều phát sinh trong những lưu vực của những con sông lớn. Như nền văn minh Babylon ở Lưỡng Hà (sông Tigrơ và sông Ơphơrát), nền văn minh Ai Cập ở lưu vực sông Nin, nền văn minh Ấn Độ ở
lưu vực sông Ấn – Hằng… Bên cạnh lưu vực sông Nin dân cư đông đúc là hoang mạc Sahara vắng bóng người, thậm chí bên trong các hoang mạc, dân cư chỉ tập trung quanh các ốc đảo, nơi có nguồn nước xuất hiện.

c) Địa hình và đất đai

Địa hình và đất đai cũng là nhân tố có nhiều ảnh hưởng đến sự phân bố dân cư. Những châu thổ màu mỡ của các sông lớn như Ấn, Hằng, Trường Giang, Mê Kông…là những vùng đông dân nhất thế giới. Những vùng đất đai khô cằn ờ các hoang mạc và thảo nguyên khô cằn có rất ít dân cư. Địa hình lại thường có mối quan hệ với độ phì nhiêu cửa đất đai. Các đồng bằng có địa hình thấp, đất đai màu mỡ, dân cư đông đúc. Các vùng núi cao, ít đất trồng trọt, đi lại khó khăn thì cũng có ít dân cư. Nhìn chung trên thế giới, phần lớn nhân loại cư trú trên các đồng bằng có độ cao không quá 200m so với mặt nước biển vì có nhiều thuận lợi cho cả sản xuất lẫn cư trú. Ở nước ta, đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình có mật độ dân số cao nhất trong cả nước.

d) Tài nguyên khoáng sản

Nguồn tài nguyên tài nguyên cũng có ý nghĩa nhất định trong việc phân bổ dân cư. Những mỏ lớn có sức mê hoặc so với con người, dù điều kiện kèm theo sinh hoạt có nhiều khó khăn vất vả do vạn vật thiên nhiên khắc nghiệt .

2. Các nhân tố kinh tế – xã hội, lịch sử

a) Trình độ phát triển lực lượng sản xuất

Trong xã hội nguyên thủy, con người sinh sống bằng săn bắt, hái lượm nay đây mai đó nên cần phải có địa bàn đất đai rộng lớn. Việc tập trung dân cư có mật độ dân số cao trên một diện tích đất đai nhỏ chỉ có được khi nền nông nghiệp định canh ra đời. Thành phố đã mọc lên từ xa xưa vào thời nô lệ, nhưng nó thật sự trở thành trung tâm thu hút dân cư chỉ từ khi nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa bắt đầu mở rộng. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, bộ mặt phân bố dân cư trên địa cầu dần dần thay đổi. Ngày nay, nhiều trung tâm dân cư lớn đã mọc lên ở cả vùng quanh năm băng giá, cả vùng núi cao ba bốn ngàn mét, các vùng hoang mạc nóng bỏng, thậm chí vươn cả ra biển. Điều kiện tự nhiên tuy vẫn thế, nhưng sự phân bố dân cư đã có nhiều biến đổi. Rõ ràng, các nhân tố tự nhiên chỉ tạo ra khả năng cho việc tập trung dân cư, còn khả năng ấy thực hiện được như thế nào lại do các nhân tố xã hội, trước hết là trình độ phát triển lực lượng sản xuất.

b) Tinh chất của nền kinh tế

Sự phân bố dân cư có mối liên hệ chặt chẽ với tính chất của nền kinh tế, chẳng hạn, những khu dân cư đông đúc thường gắn bó với các hoạt động công nghiệp nhiều hơn so với nông nghiệp. Trong khu công nghiệp, mật độ dân số cao thấp khác nhau cũng tùy theo tính chất của từng ngành sản xuất. Và cùng với sự phát triển của khoa
học và công nghệ thì mức độ lập trung dân cư trong các khu công nghiệp cũng có chiều hướng giảm xuống. Trong hoạt động nông nghiệp cũng vậy, có nơi thưa dân nhưng cũng có nơi đông dân. Riêng trong ngành trồng trọt thì việc canh tác lúa nước đòi hỏi rất nhiều lao động, nên những vùng trồng lúa nước thường là vùng dân cư
rất trù mật. Ngược lại, các vùng trồng lúa mì, trồng ngô, dân cư không đông lắm, một phần là do việc trồng các loại cây này không cần nhiều nhân lực như các loại cây khác.

c) Lịch sử khai thác lãnh thổ

Tình hình phân bố dân cư thường cũng có mối liên quan với quá trình khai thác lãnh thổ, người ta thấy ở những khu vực khai thác lâu đời (như các đồng bằng ở Đông Nam Á…) có dân cư đông đúc hơn những khu vực mới khai thác (như ở Úc, Canada). Ở Nga, khoảng một nửa dân số cả nước tập trung ở phía Tây sông Volga mà lãnh thổ này chỉ chiếm diện tích rất nhỏ so với diện tích toàn quốc điều đó cũng được lí giải bằng lịch sử khai thác lãnh thổ. Tương tự như vậy là miền Đông Bắc Trung Quốc thưa dân so với miền Trung và miền Nam đông dân. Ở Việt
Nam, đồng bằng Bắc Bộ có lịch sử khai thác lâu đời, dân cư trù mật nhất cả nước, trong khi đó đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu nhưng mật độ dân cư lại thấp hơn.

Việc chuyển cư cũng có nhiều ảnh hưởng tác động tới sự phân bổ dân cư quốc tế. Vào khoảng chừng giữa thế kỉ XVII, dân số Bắc Mỹ mới có 1 triệu, châu Mỹ Latinh 12 triệu, châu Đại Dương 2 triệu, nghĩa là mới chỉ chiếm chưa đầy 0,2 % ; 2,3 % và 0,4 % dân số quốc tế. Ngày nay, sau hơn 3 thế kỉ, số dân của những lục địa ấy tăng lên tới hàng chục, hàng trăm lần là do tác dụng của những đợt chuyển cư lớn từ châu Âu và châu Phi tới. Trong khoảng chừng thời hạn từ 1750 đến 1900, dân số châu Âu chỉ tăng 3 lần, còn dân số châu Mỹ tăng tới 12 lần. Vào giữa thế kỉ XVII, số dân châu Phi chiếm 18,4 % dân số quốc tế nhưng đến năm 1975 chỉ bằng 8 % dân số quốc tế do bị bán sang châu Mỹ làm nô lệ.