Sơn Đông – Wikipedia tiếng Việt

Sơn Đông (giản thể: 山东; phồn thể: 山東; bính âm:  (trợ giúp·thông tin); Wade-Giles: Shan-tung) là một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế Trung Quốc với 100,4 triệu dân và 7,65 nghìn tỷ NDT (1,165 nghìn tỷ USD).

Tên gọi ” Sơn Đông ” xuất phát từ vị trí của tỉnh này ở phía đông Thái Hành Sơn, [ 1 ] giản xưng của tỉnh Sơn Đông là ” Lỗ “, theo tên nước Lỗ thời cổ. Trước thời nhà Kim, Sơn Đông về mặt khái niệm địa lý là khu vực lưu vực Hoàng Hà to lớn ở phía đông Hào Sơn, Hoa Sơn hoặc Thái Hành Sơn. Thời cổ, trên địa phận tỉnh Sơn Đông ngày này có nước Tề và nước Lỗ. Sơn Đông nằm ở duyên hải phía đông Trung Quốc, thuộc hạ du Hoàng Hà, là địa phương cực bắc của vùng Hoa Đông. Tỉnh lị của Sơn Đông là Tế Nam. Ở 50% phía tây, Sơn Đông giáp với những tỉnh khác tại Trung Quốc, từ bắc xuống nam lần lượt là : Hà Bắc, Hà Nam, An Huy và Giang Tô. Ở trung bộ, địa hình Sơn Đông cao bất thần với đỉnh Thái Sơn là điểm trên cao nhất trên địa phận. Bán hòn đảo Sơn Đông giáp với Hoàng Hải, cách bán đảo Liêu Đông qua eo biển Bột Hải, bảo vệ Bắc Kinh – Thiên Tân và Bột Hải, đối lập với bán đảo Triều Tiên qua Hoàng Hải, đông nam bán đảo là vùng biển Hoàng Hải to lớn .Tỉnh Sơn Đông có lịch sử vẻ vang vĩnh viễn và văn hóa truyền thống đa dạng chủng loại. Các nhà sáng lập tư tưởng Nho giáo như Khổng Tử và Mạnh Tử, nhà sáng lập tư tưởng Mặc gia là Mặc Tử, những nhà quân sự chiến lược nổi tiếng như Tôn Tử, Tôn Tẫn, Ngô Khởi đều được sinh ra ở Sơn Đông. Với dân số trên 90 triệu người, Sơn Đông là tỉnh có dân số đông thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Quảng Đông. Sơn Đông là một tỉnh lớn công-nông nghiệp, góp phần một phần chính giá trị của nền kinh tế tài chính Trung Quốc, tổng GDP của Sơn Đông đứng thứ ba tại Trung Quốc .

Thời kỳ Cổ đại[sửa|sửa mã nguồn]

Ở huyện Nghi Nguyên thuộc Sơn Đông, người ta đã phát hiện ra hóa thạch của người Nghi Nguyên (沂源人, Homo erectus Yiyuanensis) có niên đại từ thế Canh Tân cách nay từ 400.000 đến 500.000 năm trước, là một trong các ví dụ sớm nhất về người đứng thẳng tại Trung Quốc. Ngoài ra, trên địa bàn Sơn Đông đã khai quật thấy một di chỉ tụ cư bộ lạc thị tộc mẫu hệ có niên đại cách nay 7.000-6.000 năm[2], thuộc thời đại đồ đá, thuộc văn hóa Bắc Tân (北辛文化), có một số đặc điểm gần gũi với văn hóa Ngưỡng Thiều ở Trung Nguyên.[3] Từ khoảng 4300 TCN – 2500 TCN, trên địa bàn Sơn Đông tồn tại văn hóa Đại Vấn Khẩu (大汶口文化) và văn hóa Long Sơn (龍山文化). Hiện nay, các đồ vật khai quật có niên đại sớm nhất có thể dùng để truy nguyên Hán tự là từ các mảnh đồ gốm của văn hóa Long Sơn.

Sơn Đông chiếm hữu rất nhiều truyền thuyết thần thoại cổ sử, Thái Hạo, Thiếu Hạo được cho là hoạt động giải trí tại khu vực gò đồi ở đông nam của tỉnh. Sau đó, Xi Vưu, Chuyên Húc, Đế Khốc, Ngu Thuấn, Cao Dao, Bá Ích được cho là hoạt động giải trí ở vùng bình nguyên tây-bắc và ở phần giao giới với những tỉnh lân cận. Sơn Đông nằm ở đông bộ bình nguyên Hoa Bắc, chịu tác động ảnh hưởng của văn minh Hoa Hạ từ rất lâu .Sau khi nhà Hạ được xây dựng tại Cafe Trung Nguyên, khu vực Sơn Đông về cơ bản do tộc Đông Di khống chế. Các bộ lạc Đông Di trứ danh có : Hữu Tiết ( 有薛 ), Phiên ( 蕃 ), Hữu Nhưng ( 有仍 ), Hữu Mân ( 有缗 ), Tam Phảm ( 三𦟣 ), Cố ( 顧 ), Hữu Sân ( 有莘 ), Hữu Cùng ( 有窮 ), Hữu Cách ( 有鬲 ), Quá, ( 過 ), Hàn ( 寒 ), Châm Quán ( 斟灌 ), Châm Tầm ( 斟尋 ), Phí ( 費 ), Tăng ( 繒 ), Kỷ ( 杞 ), Quan ( 觀 ). [ 4 ]Thời kỳ đầu tộc Thương, bộ lạc này lấy tây nam bộ Sơn Đông làm TT hoạt động giải trí. Thủy tổ tộc Thương là Khiết từng định đô tại Phiên ( 蕃 ) – nay thuộc Đằng Châu, thủ lĩnh Tướng Thổ định đông đô tại chân Thái Sơn. Sau này, tộc Thương tăng trưởng thế lực về hướng đông, vượt quá Tứ Thủy ( 泗水 ), Sơn Đông vì vậy là một trong những khu vực hoạt động giải trí chính của tộc Thương. Đầu thời nhà Thương, triều đình từng định đô tại Bạc ( 亳 ) – nay thuộc huyện Tào, sau từng có tám lần thiên đô, trong đó hai lần đầu nằm trên địa phận Sơn Đông, sau đó kinh đô triều Thương từng đặt ở đất Tí ( 庇 ) – nay thuộc Vận Thành, đất Yểm ( 奄 ) – nay thuộc Khúc Phụ. Khu vực thống trị của triều Thương có diện tích quy hoạnh thống trị to lớn hơn nhiều so với triều Hạ, số phương quốc ( tức nước chư hầu ) tăng thêm nhiều. Các phương quốc đa phần của triều Thương trên địa phận Sơn Đông gồm : Yểm ( 奄 ), Bạc Cô ( 薄姑 ), Chư ( 諸 ), Cử ( 莒 ), Đàm ( 郯 ), Phùng ( 逢 ), Họa ( 畫 ), Cố ( 顧 ), Thục ( 蜀 ), Lê ( 黎 ), Lai ( 萊 ), Kỷ ( 杞 ), Tăng ( 繒 ), Sân ( 莘 ), Nhâm ( 任 ). [ 4 ]Thế kỷ XI TCN, Chu Vũ vương hủy hoại triều Thương, mở màn quản lý Thiên hạ. Sau đó, Vũ vương đã phong cho người phụ tá có công là Khương Tử Nha ở đất Tề, phong cho em trai là Chu Công Đán ở đất Lỗ .
Nước Tề định đô ở Lâm Truy, địa thế căn cứ theo ” Tả truyện – Hi công tứ niên “, cương vực nước này ” đông đến biển, tây đến hà ( Hoàng Hà ), nam đến Mục Lăng ( 穆陵 ) – nay ở nơi giao giới giữa Nghi Thủy và Lâm Cù, bắc đến Vô Lệ ( 無棣 ) – nay thuộc Diêm Sơn của Hà Bắc. Nước Tề ” có nghề công thương thuận tiện, có nguồn lợi muối cá thuận tiện, nên nhiều người dân theo về “. Nước Tề dung hợp ” văn hóa truyền thống Đông Di “, ” cử hiền và thượng công “, chuyên tâm cải cách, quốc lực ở mức cao trong số những nước chư hầu. Điền thị nguyên nắm giữ quyền bính tại nước Tề, đến năm 386 TCN thì thay thế sửa chữa Khương thị làm vua nước Tề, sử gọi là Điền Tề .Năm 567 TCN, một nước chư hầu Đông Di ở Sơn Đông là Lai đã tiến đánh Tề tuy nhiên đã bị Tề Linh công vượt mặt trọn vẹn, Lai Cung công Phù Nhu bị giết. [ 5 ] [ 6 ] Lai là một nước lớn, và Tề đã lan rộng ra được gấp đôi cương vực của mình sau khi thôn tính nước Lai. [ 5 ] [ 7 ] [ 8 ] Ngành công thương mại và kỹ thuật của Tề như dệt may đã rất tăng trưởng, được khen là ” Thiên hạ mũ, dây, áo quần, giày ” .Nước Lỗ định đô tại Khúc Phụ, cương vực nước này hầu hết nằm ở phía nam Thái Sơn, ở khu vực TT và miền tây nam của tỉnh Sơn Đông ngày này. Nước Lỗ tuân theo phép tắc lễ nhạc triều Chu, nông nghiệp tăng trưởng, tôn trọng nhân nghĩa, truyền thống cuội nguồn, luân lý, nhân hòa, là một ” lễ nghi chi bang ” .Văn hóa Tề Lỗ ( 齐鲁文化 ) có góp sức lớn và ảnh sâu rộng đến sự tăng trưởng, hình thành của văn hóa truyền thống Trung Hoa. Khổng Phu Tử sinh ra tại đô thị Khúc Phụ của nước Lỗ, là người sáng lập ra tư tưởng Nho gia – sau này trở thành nền tảng của khuôn khổ và giá trị quan của xã hội Trung Quốc. Mạnh Tử, Trang Tử, Tôn Tử, Mặc Tử, Lỗ Ban và nhiều người hai nước Tề Lỗ khác là những đại biểu kiệt xuất có góp sức trên nhiều phương diện cho văn minh Nước Trung Hoa .Ngoài Tề và Lỗ ra thì vào thời Xuân Thu, trên địa phận Sơn Đông còn có nhiều tiểu quốc chư hầu khác, chỉ xét theo Tả truyện thì đã nhiều đến 55 nước, trong đó những nước có cương vực và ảnh hưởng tác động lớn là Lai, Cử, Đằng, sau đó đều bị hai nước Tề và Lỗ thôn tính. Đến thời Chiến Quốc, nước Tề bành trướng đến bán đảo Giao Đông, trở thành một trong Chiến Quốc thất hùng. Năm 249 TCN, nước Sở tàn phá nước Lỗ, đến năm 223 TCN thì nước Tần công hãm nước Sở. Đến năm 221 TCN, nước Tề trở thành nước chư hầu ở đầu cuối bị Tần thôn tính .

Thời kỳ phong kiến[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi thống nhất Trung Quốc, Nhà Tần thi hành Q. huyện chế trên toàn nước, những Q. đa phần nằm trên địa phận Sơn Đông và có một phần thuộc Sơn Đông là : Tề Q., Lang Da Q., Tế Bắc Q., Giao Đông quận, Tiết Q.. Để tăng cường thống trị với Sơn Đông, Tần Thủy Hoàng đã hạ lệnh đem cựu quý tộc và phú hào nước Tề trước đây đến những vùng Hàm Dương, Ba Thục, phá bỏ Tề Trường Thành, thiết kế xây dựng trì đạo ( đường ngựa xe chạy ) trực thông đến kinh thành Hàm Dương, triển khai giao lưu kinh tế tài chính và văn hóa truyền thống giữa Sơn Đông và những khu vực khác. Triều đình Tần triển khai thống nhất văn tự trên toàn nước, văn tự cổ của nước Tề bị phế trừ, đẩy nhanh vận tốc thống nhất về văn hóa truyền thống và ngôn từ giữa Sơn Đông và những khu vực khác .Năm 209 TCN, Trần Thắng và Ngô Quảng đã khởi nghĩa tại Đại Trạch hương ( nay thuộc tỉnh An Huy ), sau đó Bành Việt tại Xương Ấp ( nay thuộc Cự Dã ) cũng triển khai khởi nghĩa phản Tần, là một lực lượng vũ trang trọng điểm thời Tần mạt. Đến khi Lưu Bang khởi nghĩa từ huyện Bái ( nay thuộc tỉnh Giang Tô ) cũng lấy nam bộ Sơn Đông làm khoanh vùng phạm vi hoạt động giải trí. Đồng thời, lực lượng phản Tần còn gồm có thế lực cựu quý tộc của sáu nước trước đây, hậu duệ Điền Tề là Điền Đam đã tự lập làm vương, sở hữu khu vực nước Tề trước đây. Sau khi Trần Thắng thất bại, quân Tần phản công, Điền Đam bị giết. Sau đó, em Điền Đam là Điền Vinh và Điền Hoành dẫn tàn quân ở Nguỵ về Tề, Phục hồi được nước Tề .Sơn Đông có tiếng tốt là ” đất trồng phì nhiêu nghìn lý “, đã tăng trưởng nông nghiệp và thủ công nghiệp từ sớm, đã trở thành TT kinh tế tài chính của Trung Quốc từ thời Tần Hán. Sau khi diệt Tần, Hạng Vũ tự xưng làm Sở Bá Vương, đứng đầu chư hầu, phân phong cho những chư hầu, nước Tề bị chia làm 3 : Điền Đô được phong làm Tề vương, đóng đô ở Lâm Truy ; Điền Phất làm Giao Đông vương, đóng đô ở Tức Mặc ; Điền An được lập làm Tế Bắc vương, đóng đô ở Bắc Dương. Sau khi Hạng Vũ chết, Lưu Bang đã hạ lệnh an táng Hạng Vũ theo lễ Lỗ công tại Cốc Thành – nay thuộc huyện Bình Âm của Sơn Đông. Thời kỳ Tây Hán, khu vực Sơn Đông có khoảng chừng 17 triệu người, 3,9 triệu hộ, chiếm gần một phần ba dân số toàn Đại Hán khi đó, cũng là khu vực có tỷ lệ cao nhất. Thời Hán, Sơn Đông là một nguồn cung mẫu sản phẩm quan trọng của con đường tơ lụa, Lâm Truy, Định Đào, Kháng Phụ ( nay là Tế Ninh ) là ba TT dệt lớn của toàn nước. Một lượng lớn loại sản phẩm dệt tinh xảo đã được luân chuyển đến Tây Vực từ những nơi này. Thời Hán, ở khu vực Sơn Đông có hai châu ( đơn vị chức năng hành chính cấp 1 ) : Thanh châu ( 青州 ) ở bắc bộ và Duyện châu ( 兖州 ) ở nam bộ .Những năm cuối thời Hán, Tào Tháo, Lưu Đại, Tang Bá, Trương Mạc trước sau đã lấy đất Sơn Đông làm nơi khởi binh. Sang thời Tam Quốc, Sơn Đông thuộc về Tào Ngụy. Sau khi những tộc Ngũ Hồ tràn vào Cafe Trung Nguyên, hủy hoại Tây Tấn, tây bộ Sơn Đông cũng trở thành một mặt trận ác liệt, đã xảy ra nhiều chiến dịch lớn. Vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc, Sơn Đông trước sau thuộc về những nước Hậu Triệu, Đông Tấn, Tiền Yên, Tiền Tần, Hậu Yên. Hậu kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc, năm 399, hoàng thân Tiên Ti là Mộ Dung Đức đã chiếm được đô phủ của Thanh châu ( nay là trung bộ và đông bộ Sơn Đông ) thuộc Đông Tấn là Quảng Cố ( nay thuộc Thanh Châu ), biến Quảng Cố thành kinh đô mới của Nam Yên. Tháng 2 năm 410, tướng Đông Tấn là Lưu Dụ công phá Quảng Cố, Mộ Dung Siêu và 3.000 quan lại quý tộc Nam Yên bị quân Đông Tấn bắt sống, giải về Kiến Khang, sau bị chém đầu. Năm 412, vị cao tăng Đông Tấn Pháp Hiển ( 法顯 ) đã dừng chân ở Lao Sơn, thuộc rìa phía nam bán đảo Sơn Đông, rồi tiến đến Thanh Châu để biên dịch những kinh Phật mà ông mang về từ Ấn ĐộNăm 420, nhà Lưu Tống sửa chữa thay thế nhà Đông Tấn, Sơn Đông thuộc cương vực của triều đại này. Tuy nhiên, sau Chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy, Sơn Đông đã thuộc về Bắc Ngụy – triều đại đã thống nhất miền Bắc Trung Quốc. Sau khi Bắc Ngụy diệt vong, Sơn Đông lần lượt thuộc về Đông Ngụy và Bắc Tề .Vào thời hạn cực thịnh của triều Tùy, số hộ tại khu vực nay là Sơn Đông chiếm 21 % tổng số hộ toàn nước. Chiến loạn những năm cuối triều Tùy đã phá hoại nặng nề Sơn Đông. Sau Trinh Quán chi trị thời Đường Thái Tông và Vĩnh Huy chi trị thời Đường Cao Tông, Sơn Đông mới hoàn toàn có thể Phục hồi và tăng trưởng. Thời Nhà Đường, khu vực Sơn Đông đa phần thuộc về Hà Nam đạo. Những năm Khai Nguyên và Thiên Bảo thời Đường Huyền Tông, mỗi năm đều có hàng triệu thạch lương thực được luân chuyển từ Sơn Đông đến Quan Trung, và ở những nơi như đất Thanh ( nay là Thanh Châu ) và đất Tề ( nay là Tế Nam ), vật giá thấp hơn nhiều so với những khu vực khác tại Trung Quốc. Thời Đường, kính hoa lăng ( 镜花绫 ) Duyện châu, tiên văn lăng ( 仙纹绫 ) Thanh châu, đều là những loại sản phẩm dệt đẹp và tốt nổi tiếng trên toàn nước. Đến cuối thời Đường, cuộc chiến tranh lại nổi lên khắp nơi. Các Truy Thanh tiết độ sứ từng sau đó nhau cát cứ Sơn Đông trong suốt 60 năm ( 758 – 819 ) : Hầu Hi Dật ( 侯希逸 ), những thành viên họ Lý gồm Lý Chính Kỉ ( 李正己 ), Lý Nạp ( 李纳 ), Lý Sư Cổ ( 李师古 ), Lý Sư Đạo ( 李师道 ). Sang thời Ngũ Đại Thập Quốc, Sơn Đông lần lượt thuộc cương vực của năm triều đại ngắn ngủi ở phương Bắc : Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu ; trong thời hạn này kinh tế tài chính Sơn Đông trọn vẹn đình trệ .
Tích Chi tháp ( 辟支塔 ) tại Linh Nham tự ( 靈巖寺 ) ở Tế Nam, được xây từ năm 1056 đến năm 1063Triều Tống tái thống nhất Trung Quốc vào cuối thế kỷ X. Năm 1996, người ta đã tìm thấy hơn 200 bức tượng Phật giáo tại Thanh Châu, nó được ca tụng là một phát hiện khảo cổ học lớn. Các bức tượng được cho là đã bị chôn vùi khi Tống Huy Tông đàn áp Phật giáo do ông ủng hộ Đạo giáo. Thời Bắc Tống, kinh tế tài chính Sơn Đông hồi sinh và tăng trưởng nhanh gọn, năm Tuyên Hòa thứ 1 ( 1119 – 1120 ) thời Tống Huy Tông, Tống Giang đã tập hợp 36 người nổi dậy tại Lương Sơn ( nay thuộc huyện Bình Hồ ), vấn đề này được tiểu thuyết hóa trong tác phẩm Thủy Hử truyện. Năm Chí Đạo thứ 3 ( 997 ), triều đình Tống chia toàn nước thành 15 lộ, khu vực Sơn Đông lúc bấy giờ thuộc Kinh Đông lộ. Năm Hi Ninh thứ 5 ( 1072 ), triều đình Tống chính thức phân Kinh Đông lộ thành hai lộ là Kinh Đông Đông lộ và Kinh Đông Tây lộ, đại bộ phận Sơn Đông thuộc Kinh Đông Đông lộ, còn phần tây nam thuộc Kinh Đông Tây lộ .

Triều Tống đã buộc phải nhượng khu vực phía Bắc Trung Quốc, trong đó có Sơn Đông, cho triều Kim của người Nữ Chân vào năm 1142. Thời Kim, khu vực tỉnh Sơn Đông hiện nay gần như tương ứng với phạm vi của Sơn Đông Đông lộ (trị sở tại Ích Đô) và Sơn Đông Tây lộ (trị sở tại Đông Bình). Những năm Thái Hòa thời Kim Chương Tông là thời cực Thịnh của triều Kim, khi đó tổng nhân khẩu của Sơn Đông Đông lộ và Sơn Đông Tây lộ vượt quá 10 triệu người. Khi đế quốc Mông Cổ xâm lược Kim, Sơn Đông đã bị tàn phá, cả nghìn lý không có một bóng người. Kết quả là đến năm Chí Nguyên thứ 13 (1276) thời Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, Sơn Đông chỉ còn 1,26 triệu người với 38 vạn hộ, giảm tương ứng 87% và 75% so với thời Kim, chưa bằng một phần mười nếu so với thời Tây Hán. Thời Kim và Nguyên, người dân bị bóc lột nghiêm trọng, cùng với sự thống trị hung bạo của ngoại tộc, xã hội và kinh tế Sơn Đông lâm vào tình trạng đình trệ và suy thoái.

Sơn Đông hành tỉnh được thiết lập vào những năm Hồng Vũ thời Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, đương thời Sơn Đông còn gồm có cả Liêu Đông. Vào khoảng chừng năm Hồng Vũ thứ 1 ( 1368 ), Sơn Đông ” phần đông là đất không người “, triều đình Minh khuyến khích nhân dân khai khẩn. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 ( 1393 ), diện tích quy hoạnh đất canh tác của Sơn Đông đã đạt trên 72,4 triệu mẫu, đứng thứ ba toàn nước. Năm Vĩnh Lạc thứ 19 ( 1421 ) thời Minh Thái Tông, sau khi triều Minh thiên đô đến Bắc Kinh, những nơi nằm ven tuyến Đại Vận Hà là Tế Ninh và Lâm Thanh thuộc Sơn Đông đã tăng trưởng phồn vinh nhờ tào vận, tức luân chuyển bằng đường thủy. Sơn Đông hành tỉnh thời Minh được phân thành 6 phủ : Tế Nam, Duyện Châu, Đông Xương, Thanh Châu, Lai Châu, Đăng Châu .Sang thời Thanh, Sơn Đông tỉnh được phân thành ba đạo : Tế Đông Thái Vũ Lâm đạo, Đăng Lai Thanh Giao đạo, Duyện Nghi Tào Tế đạo. Năm Khang Hy thứ 61 ( 1722 ) thời Thanh Thánh Tổ, diện tích quy hoạnh đất canh tác của Sơn Đông đạt trên 90 triệu mẫu, lại trở thành một trong những tỉnh đông dân nhất nước. Năm 1855, Hoàng Hải đổi dòng, lại chảy qua địa phận Sơn Đông rồi đổ ra biển. Kể từ đó, đoạn Đại Vận Hà qua Sơn Đông từ từ bị ứ tắc, những thành thị Tế Ninh, Lâm Thanh và Đông Xương ( Liêu Thành ) nhanh gọn suy thoái và khủng hoảng. Thập niên 1860, Yên Đài trở thành cảng Open tiên phong của Sơn Đông, đương thời luân chuyển đường thủy đã trở thành phương pháp giao thông vận tải hầu hết giữa bắc và nam của Trung Quốc, Yên Đài vì vậy nhanh gọn tăng trưởng phồn vinh. Năm 1895, trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ, quân Nhật công chiếm Uy Hải, toàn hạm quân Bắc Dương bị hủy hoại. Sơn Đông là một tỉnh trọng điểm trong hoạt động giải trí truyền giáo tại Trung Quốc của những giáo sĩ truyền giáo phương Tây. Năm 1899, Nghĩa Hòa Đoàn đã nổi lên từ Sơn Đông, triển khai tiến công những giáo sĩ truyền giáo trên khắp địa phận tỉnh. Viên Thế Khải được cử làm tổng đốc Sơn Đông để dập tắt cuộc khởi nghĩa và nắm giữ chức vụ này trong 3 năm .Năm 1898, Thanh Đảo và Uy Hải phân biệt được triều Thanh cấp cho Đức Quốc và Anh Quốc thuê, Uy Hải luôn chỉ là một địa thế căn cứ thủy quân, còn Thanh Đảo dưới sự thống trị của Đức và sau này là Nhật đã tăng trưởng thành một thành thị công thương nghiệp trọng điểm của miền Bắc Trung Quốc. Người Đức đã thực thi thiết kế xây dựng đường tàu Giao-Tế nối từ Thanh Đảo đến Tế Nam trong tiến trình 1899 – 1904, triển khai xong kiến thiết xây dựng đoạn phía bắc của đường tàu Tân-Phố vào năm 1911, đưa Sơn Đông vào khoanh vùng phạm vi thế lực của họ. Các nơi ven tuyến đường sắt Giao-Tế là Tế Nam, Duy huyện ( Duy Phường ), Chu Thôn đều trở thành nơi thông thương kinh doanh với quốc tế, thành thị tăng trưởng lớn lao. Cuối thời Thanh, Nga và Nhật trở thành mối uy hiếp lớn so với Trung Quốc, triều đình sau cuối cũng phải Open Đông Bắc cho di dân người Hán, cộng với sự khuyến khích của Trương Tác Lâm vào những năm đầu Dân Quốc, trong vòng 100 năm đã có hàng chục triệu nông dân Sơn Đông theo đường thủy và đường đi bộ để đến Đông Bắc mưu sinh, gọi là Sấm Quan Đông, nay tổ thành một bộ phận quan trọng trong nhân khẩu vùng Đông Bắc .

Thời cộng hòa[sửa|sửa mã nguồn]

Quân Đức tại Thanh Đảo, 1912Trong Thế Chiến I, năm 1914, quân Nhật đổ xô lên bắc bộ bán đảo Giao Đông, vây hãm Thanh Đảo của Đức. Trải qua giao chiến ác liệt, quân Nhật ở đầu cuối cũng chiếm được Thanh Đảo. Người Đức không chỉ để mất Thanh Đảo mà còn mất tác động ảnh hưởng của họ trên toàn Sơn Đông. Theo hòa ước Versailles, người Đức nhượng những tô giới tại Sơn Đông cho Nhật Bản thay vì phục sinh chủ quyền lãnh thổ cho Trung Hoa Dân Quốc. Sự không hài lòng của công chúng Trung Quốc với yếu tố Sơn Đông trong Hòa ước Versailles đã dẫn đến trào lưu Ngũ Tứ. Cuối cùng, theo điều đình của Hoa Kỳ trong Hội nghị Washington, Nhật Bản đã trả lại Thanh Đảo cho Trung Quốc. Đến năm 1930, trải qua đàm phán ngoại giao, Anh Quốc đã trao trả Uy Hải cho Trung Quốc .

Trong Thời kỳ quân phiệt từ năm 1916 đến 1928 trong lịch sử Trung Hoa Dân Quốc, ban đầu Sơn Đông nằm trong tay các quân phiệt Trực hệ, sau từ sau chiến tranh Trực-Phụng lần hai vào năm 1924 thì Sơn Đông rơi vào tay Phụng hệ. Tháng 4 năm 1925, Phụng hệ bổ nhiệm Trương Tông Xương, có biệt danh là “cẩu nhục tướng quân” (tức “tướng quân thịt chó”) làm đốc biện Sơn Đông, ông được tạp chí Time gán cho là “quân phiệt đê tiện nhất” Trung Quốc.[9] Trương Tông Xương cai quản Sơn Đông cho đến năm 1928, khi ông bị trục xuất trong Bắc phạt. Trong Bắc phạt, khi Quốc dân Cách mạng quân qua Tế Nam, đã xảy ra xung đột với quân Nhật, được gọi là sự kiện Tế Nam hay “thảm án Ngũ Tam”.

Kế nhiệm Trương Tông Xương là Hàn Phúc Củ, người này trung thành với chủ với quân phiệt Phùng Ngọc Tường tuy nhiên sau đó đã hướng lòng trung thành với chủ của mình sang cơ quan chính phủ Nam Kinh do Tưởng Giới Thạch đứng đầu. Hàn Phúc Củ cũng trục xuất quân phiệt Lưu Trân Niên ( 劉珍年 ), có biệt danh là ” Giao Đông vương ” – người quản lý đông bộ Sơn Đông, do đó thống nhất cả tỉnh dưới quyền quản lý của mình .
Năm 1937, Nhật Bản mở màn thực thi xâm lược Trung Quốc bản thổ trong Chiến tranh Trung-Nhật, và sau đó trở thành một phần của Mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến II. Hàn Phúc Củ giữ chức quản trị tỉnh Sơn Đông, phó tư lệnh chiến khu V và được giao đảm nhiệm việc phòng thủ hạ du Hoàng Hà. Tuy nhiên, ông đã từ bỏ địa thế căn cứ Tế Nam của mình khi quân Nhật băng qua Hoàng Hà và bị hành quyết vì tội không làm theo mệnh lệnh một thời hạn ngắn sau đó. Sơn Đông trọn vẹn bị quân Nhật chiếm đóng, hoạt động giải trí kháng cự vẫn liên tục ở nông thôn, và đây cũng là một trong những tỉnh mà tướng Yasuji Okamura thi hành ” chủ trương Tam quang ” là ” giết hết, đốt hết, cướp hết “, điều này chỉ kết thúc khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945 .Sau Thế Chiến II, Bát lộ quân của Cộng sản đảng đã nắm trong tay đại bộ phận những khu vực của tỉnh Sơn Đông, thiết lập chính quyền sở tại cấp tỉnh ở Lâm Nghi, còn những nhân viên cấp dưới tiếp quản của cơ quan chính phủ Nước Trung Hoa Dân Quốc ở Trùng Khánh chỉ trấn áp được những thành phố lớn. Sau khi bùng phát Nội chiến Quốc-Cộng, quân đội chính phủ nước nhà Quốc dân từng công hạ một bộ phận huyện thị. Tháng 5 năm 1947, Hoa Đông Nhân dân Giải phóng quân của Trần Nghị tại chiến dịch Mạnh Lương Cố ( 孟良崮 ) đã tàn phá trọn vẹn sư đoàn 74 gồm bộ đội tinh luyện Trung ương quân của Trương Linh Phủ ( 張靈甫 ). Ngày 24 tháng 9 năm 1948, quân của Trần Nghị công chiếm Tế Nam, quản trị Sơn Đông là Vương Diệu Vũ đã bị bắt làm tù binh ở Thọ Quang khi đang trên đường chạy đến Thanh Đảo. Ngày 2 tháng 6 năm 1949, sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Thanh Đảo, Giải phóng quân tiến vào đóng quân trong thành phố .Sau khi Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa được xây dựng, năm 1950, 1 số ít phần ở tây bộ Sơn Đông gồm Hà Trạch và Liêu Thành đã bị tách ra để hợp thành tỉnh mới Bình Nguyên, tuy nhiên tỉnh này đã bị triệt tiêu vào năm 1952 và những khu vực này lại quay trở lại Sơn Đông. Từ Châu và Liên Vân Cảng của Giang Tô cũng từng thuộc quyền quản trị của Sơn Đông trong quá trình 1949 – 1952. Trong Nạn đói lớn 1959 – 1961, Sơn Đông là một trong những tỉnh chịu thiệt hai nghiêm trọng nhất toàn nước, đặc biệt quan trọng là vùng có Hoàng Hà chảy qua ở tây bắc bộ. Từ thập niên 1980, Sơn Đông, đặc biệt quan trọng là vùng duyên hải đông bộ, đã có sự tăng trưởng to lớn về kinh tế tài chính, trở thành một trong những tỉnh phong phú nhất của Trung Quốc .
Địa hình đa phần của Sơn Đông là đồng bằng. Tây bắc bộ, tây bộ, tây nam bộ của tỉnh đều là một bộ phận của bình nguyên Hoa Bắc to lớn. Trung bộ Sơn Đông có địa hình núi non hơn, trong đó Thái Sơn được biết đến nhiều nhất. Đông bộ Sơn Đông là bán đảo Sơn Đông nhiều đồi núi lê dài ra đến biển ; bán đảo này tách Bột Hải ở phía tây-bắc với Hoàng Hải ở phía đông và nam. Đỉnh cao nhất ở Sơn Đông là đỉnh Ngọc Hoàng thuộc Thái Sơn với cao độ 1.545 mét ( 5.069 ft ) .Hoàng Hà chảy qua tây bộ Sơn Đông, đổ ra biển ở vùng bờ biển bắc bộ Sơn Đông ; đoạn sông chảy qua Sơn Đông được đắp đê hai bên, do bồi tích trong một thời hạn dài nên lòng sông cao hơn những khu vực đất đai ngoài đê, ngoài những một số ít vùng ở tây bộ Sơn Đông cũng thuộc lưu vực Hải Hà ở phía bắc và lưu vực Hoài Hà ở phía nam. Đại Vận Hà đi vào Sơn Đông ở phía tây-bắc và tây-nam. Hồ Vi Sơn ( 微山湖 ) là hồ lớn nhất Sơn Đông, với diện tích quy hoạnh 1266 km². Chiều dài đường bờ biển của Sơn Đông là khoảng chừng 3.000 kilômét ( 1.900 mi ). Bán đảo Sơn Đông có một đường bờ biển nhiều đá với những vách đá, vịnh và hải đảo. Vịnh Lai Châu là vịnh cực nam trong ba vịnh lớn của Bột Hải, nằm ở phía bắc bán đảo, giữa Đông Dinh và Bồng Lai. Vịnh Giao Châu nhỏ hơn nhiều vịnh Lai Châu, nằm ở phía nam bán đảo, cạnh Thanh Đảo. Quần đảo Trường Sơn ( 长山列岛 ) lê dài về phía bắc từ bờ biển phía bắc của bán đảo .

Sơn Đông có khí hậu ôn hòa, nằm ở vùng chuyển giao giữa khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Cwa theo phân loại khí hậu Köppen) và khí hậu lục địa ẩm (Köppen Dwa) với bốn mùa phân biệt. Mùa hè nóng và mưa nhiều (ngoại trừ một vài khu vực ven biển), trong khi mùa đông lạnh và khô. Nhiệt độ trung bình của Sơn Đông là −5 đến 1 °C (23 đến 34 °F) vào tháng 1 và 24 đến 28 °C (75 đến 82 °F) vào tháng 7. Lượng mưa bình quân là 550 đến 950 milimét (22 đến 37 in), phần lớn là vào những tháng mùa hè, do ảnh hưởng của gió mùa.

Sơn Đông là một phần của khối phía Đông thuộc nền cổ Hoa Bắc. Bắt đầu vào Đại Trung sinh, Sơn Đông đã trải qua một quy trình mỏng dính hóa vỏ Trái Đất, một điều khác thường của một nền cổ và nó đã khiến lớp vỏ Trái Đất giảm từ 200 km xuống còn 80 km. Sơn Đông do đó đã từng chịu những ảnh hưởng tác động lê dài của núi lửa trong Phân đại Đệ Tam. Một số thành hệ địa chất tại Sơn Đông có nhiều hóa thạch. Ví dụ như tại Chư Thành ở đông nam bộ Sơn Đông, người ta đã phát hiện ra nhiều hóa thạch khủng long thời tiền sử. Một phát hiện lớn đã tìm được 7.600 xương khủng long thời tiền sử, gồm có tro cốt của tyrannosaurus và ankylosaurus, được công bố vào năm 2008, và được cho là bộ sưu tập lớn nhất từng được phát hiện. [ 11 ]

Các đơn vị chức năng hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Sơn Đông được chia thành 16đơn vị hành chính cấp địa khu, và tất cả đều là thành phố thuộc tỉnh (địa cấp thị):

Các đơn vị hành chính cấp địa khu trên đây được chia thành 140 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 49 quận (thị hạt khu), 31 thành phố cấp huyện (huyện cấp thị) và 108 huyện. Các đơn vị hành chính cấp huyện này lại được nhỏ thành 1941 đơn vị hành chính cấp hương, gồm 1223 thị trấn (trấn), 293 hương, 2 hương dân tộc, và 423 phường (nhai đạo).

Các Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Sơn Đông thế kỷ XXI đều là chuyên gia kinh tế. Sơn Đông có dân đông đảo và kinh tế cao. Năm 1978, GDP Sơn Đông đứng thứ tư trong cả nước. Trong 30 năm 1979 – 2008, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm ở Sơn Đông là 11,6%, đứng thứ năm trong cả nước sau Quảng Đông, Chiết Giang, Phúc Kiến và Nội Mông Cổ, trong đó tốc độ tăng trưởng GDP từ 1992 đến 1995 vượt quá 20%[12]. Kể từ năm 2007, kinh tế Sơn Đông đã đứng thứ ba trong cả nước. Năm 2014, tổng GDP của Sơn Đông là gần một nghìn tỷ USD và GDP bình quân đầu người là 9.911 USD. Trong năm 2015, GDP tăng 8,0%, vượt sáu nghìn tỷ NDT[13].

Năm năm ngoái, 15 tỉnh và thành phố thuộc tỉnh Sơn Đông đã lọt vào list 100 thành phố số 1 ở Trung Quốc, số lượng được xếp hạng tiên phong ở mỗi tỉnh [ 14 ]. Năm 2017, GDP tăng 7,4 % so với năm trước và vượt bảy nghìn tỷ NDT. Thương mại quốc tế của Sơn Đông đã phục sinh can đảm và mạnh mẽ, với những đối tác chiến lược xuất nhập khẩu là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Nước Hàn, Thương Hội những vương quốc Khu vực Đông Nam Á. Năm 2017, tổng giá trị xuất nhập khẩu đạt 17.823 tỷ nhân dân tệ [ 15 ]. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế tài chính Trung Quốc với 100,4 triệu dân, tương tự Philippines [ 16 ] và GDP đạt 7,65 nghìn tỷ NDT ( 1,165 nghìn tỷ USD ), [ 17 ] tương ứng với México, hạng 15 quốc tế, GDP trung bình đầu người đạt 11.525 USD, hạng chín trong nước .

Các trường ĐH[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]