B5. XÂM HAI DANH DUEJ NHÂN PHẨM – Hệ thống thông tin kế toán – 21c1acc – StuDocu

LỜI NÓI ĐẦU

Những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ của xã hội, những mô hình tội phạm cũng có sự tăng trưởng, biến hóa ; trong đó, tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác có sự ngày càng tăng rõ ràng về số vụ, số người và mức độ vi phạm. Do đó, Bộ Luật Hình sự năm năm ngoái ( sửa đổi, bổ trợ năm 2017 ) đã lao lý rõ về hình phạt so với những tội xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác ; đồng thời, những cơ quan Đảng, Nhà nước đã phát hành nhiều văn bản tăng cường phòng ngừa, phòng chống tội xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác. Vậy, xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác là như thế nào ; những phòng, chống ra làm sao ? Hôm nay, tôi cùng những em sẽ điều tra và nghiên cứu chuyên đề : “ Phòng, chống một số loại tội phạm xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác ” .

NỘI DUNG

I. NHÂN THỨC VỀ TỘ I PHẠM XÂM PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨṂ
CỦA NGƯỜI KHÁC

1. Khái niêm và dấu hiệ u pháp lý của các tộ i phạm xâm phạm danh dự, nhâṇ
phẩm của người khác
a. Khái niệm
Con người là thực thể đặc biệt trong xã hội, xã hội loài người chỉ có thể
phát triển khi mỗi cá nhân được phát triển. Tất cả các quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam đều đề cao vai trò của con người và ngày càng hoàn thiện
cơ chế bảo vệ các quyền con người. Một trong những công cụ hữu hiệu để ghi
nhận, củng cố, bảo vệ quyền con người là pháp luật; đặc biệt để bảo vệ một cách
toàn diện và hiệu quả nhất đó là việc cụ thể hóa các chế định bảo vệ quyền con
người được đưa pháp luật hình sự. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, DDNP và tự do của họ, trong đó bảo vệ DDNP của con người
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Không chỉ đối với Việt Nam, pháp luật quốc tế
cũng ghi nhận quyền này của con người, quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín được ghi nhận trong tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948 tại Điều 12 “Không ai phải chịu can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống
riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín
cá nhân…”; và quyền nhân thân này cũng được quy định trong Công ước về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 “Không ai bị can thiệp một cách độc đoán
hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc
phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”. Đây là một trong những yếu tố hình
thành quyền công dân nói chung và quyền con người nói riêng, nó là những quyền tự
nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào.
Danh dự, nhân phẩm của một con người không cùng lúc xuất hiện ngay khi
con người đó được sinh ra mà nó được hình thành thông qua quá trình sinh
trưởng, phát triển và hoàn thiện của mỗi con người. Con người tham gia vào các
mối quan hệ xã hội, thông qua hành vi của mình mà thiết lập các giao dịch làm
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể. Những
thành tựu, công lao mà một người gây dựng được tích lũy qua thời gian, được xã
hội đánh giá theo hệ tiêu chuẩn và các nguyên tắc nhất định của từng thời kỳ.
Nhân phẩm của mỗi cá nhân được đánh giá trên cơ sở sự tích lũy cá nhân và
những chuẩn mực chung của xã hội. Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá
trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người; mỗi con người luôn
có những phẩm chất nhất định, những phẩm chất này sẽ làm nên giá trị của cá
nhân. Quá trình xây dựng và bảo vệ nhân phẩm của cá nhân tạo nên danh dự của
con người. Vì vậy, danh dự và nhân phẩm là hai khái niệm luôn có mối quan hệ
quy định lẫn nhau.
Mỗi người trong xã hội có thể có những giá trị DDNP giống hoặc khác
nhau, tuy nhiên những giá trị nhân thân này đều được bảo vệ một cách bình
đẳng bởi nhiều công cụ khác nhau, đặc biệt là pháp luật hình sự. Mọi hành vi
xâm phạm DDNP của con người đều bị trừng trị nghiêm khắc.

năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân
phẩm và danh dự được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ.
– Phân tích khái niệm:
+ Là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương 14:
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người (Từ Điều 141 – Điều 156)
trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
+ Do người có năng lực trách nhiệm hình sự (là người có đủ năng lực nhận
thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi theo
đòi hỏi của xã hội) và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (từ đủ 16 tuổi trở lên)
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
+ Xâm phạm tới quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm và danh dự
được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ.

b. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người

  • Khách thể của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
    Khách thể của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người được
    thể hiện ngay trong tên gọi của Chương XIV của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đó
    là, các tội phạm này xâm phạm đến quyền được bảo hộ về nhân phẩm, danh dự
    của con người. Đối tượng tác động của các tội phạm này là con người cụ thể.
    Theo đó, con người phải là một cơ thể còn sống và có thời điểm tính từ khi sinh
    ra cho đến khi chết. Điều này để nhằm phân biệt các tội xâm phạm nhân phẩm,
    danh dự của con người với một số tội phạm cũng có những hành vi phạm tội
    tương tự nhưng tác động tới đối tượng không phải là con người (người đã
    chết…). Điều này cho thấy, không thể coi một con người đang còn sống khi
    chưa lọt lòng mẹ (còn ở trong bào thai) hoặc khi người đó đã chết.
    Nhân phẩm được hiểu là phẩm chất, giá trị của một con người cụ thể và
    được pháp luật bảo vệ. Nhân phẩm là tổng hợp những phẩm chất mang tính đặc
    trưng của mỗi cá nhân, những yếu tố đặc trưng này tạo nên giá trị một con
    người.
    Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên giá trị tinh thần, đạo
    đức tốt đẹp và là cái nhằm mang lại danh dự, nhằm tỏ rõ sự kính trọng của xã
    hội, của tập thể.
    Hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là làm cho người đó
    bị xúc phạm, bị coi thường, bị khinh rẻ trong gia đình, tập thể, trong nhân dân,
    trong xã hội tùy thuộc vào vị thế, vai trò và nhiệm vụ, tuổi tác của người đó và
    mức độ của hành vi phạm tội.
  • Mặt khách quan của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
    Mặt khách quan của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
    thể hiện ở những hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không hành
    động) xâm phạm trực tiếp tới nhân phẩm, danh dự của con người. Trong
    Chương XIV của Bộ luật hình sự, đa số các hành vi nguy hiểm cho xã hội được
    thực hiện bằng hành động phạm tội như: sử dụng các công cụ, phương tiện khác
    nhau để gây nên sự tác động tới con người cụ thể, gây ra những thiệt hại hoặc đe
    dọa gây ra những thiệt hại cho con người đó. Đối với hành vi xâm phạm nhân

phẩm, danh dự của con người thường được bộc lộ bằng lời nói, cử chỉ, hành vi phát tán … xâm phạm tới uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác … Mặt khách quan của tội phạm còn bộc lộ ở hậu quả nguy hại cho xã hội. Hậu quả nguy khốn cho xã hội của những tội phạm này là những thiệt hại về sức khỏe thể chất như gây tổn hại về tinh thân như xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người. Phần lớn những tội phạm thuộc Chương XIV Bộ luật hình sự đều có cấu thành vật chất, tức là hậu quả là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Để truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về những tội phạm này cần phải làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. + Chủ thể của những tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người Chủ thể của tội phạm là người có năng lượng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực thi. Tuy nhiên do phần Chung của Bộ luật hình sự pháp luật pháp nhân thương mại chỉ hoàn toàn có thể là chủ thể của một số tội phạm nhất định, trong đó không có những tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự nên những tội phạm này chủ thể chỉ hoàn toàn có thể là cá thể có năng lượng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi nhất định. Tuy nhiên, so với một số tội phạm, thì ngoài tín hiệu chung, chủ thể của tội phạm còn cần có những tín hiệu đặc biệt quan trọng như : người đang thi hành công vụ trong Điều 137 ; người có chức vụ, quyền hạn hoặc có quan hệ nhất định so với người bị chịu ràng buộc ( Điều 130, Điều 140 ). + Mặt chủ quan của những tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người Phần lớn những tội phạm được thực thi với lỗi cố ý trực tiếp Đối với một số tội, mục tiêu và động cơ phạm tội là tín hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn pháp luật động cơ hoặc mục tiêu phạm tội là tín hiệu bắt buộc trong cấu thành tăng nặng ở một số cấu thành tăng nặng như động cơ đê hèn ( điểm c khoản 2 những điều 151, 152, 153 – những tội mua và bán, đánh cắp hoặc chiếm đoạt trẻ nhỏ ) ; để sử dụng vào mục tiêu vô nhân đạo, để đưa ra quốc tế ( điểm b khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 150 – tội mua và bán người ; điểm h, e khoản 2 những điều 151, 152, 153 – những tội mua và bán, đánh cắp hoặc chiếm đoạt trẻ nhỏ ). Đối với những tội khác, động cơ, mục tiêu phạm tội không phải là tín hiệu bắt buộc .

2. Phân loại các tôi phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩṃ
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bổ sung và
quy định rõ thêm một số tội danh xâm phạm đến DDNP của con người (đặc biệt
đối với tội danh xâm phạm đến DDNP của con người là trẻ em) so với BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009). Theo quy định pháp luật Hình sự Việt Nam
hiện nay, các tội xâm phạm DDNP của con người gồm:

– Các tội xâm phạm tình dục:
Nhóm tội này gồm các tội sau: Tội hiếp dâm; Tội cưỡng dâm; Tội dâm ô
với người dưới 16 tuổi; Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Tội sử dụng người dưới 16 tuổi
vào mục đích khiêu dâm.
Theo BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) Việt Nam, các tội xâm phạm tình
dục bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Tội

– Nhóm tội khác như: Tội lây truyền HIV cho người khác; Tội cố ý
truyền HIV cho người khác; Tội chống người thi hành công vụ.

Các hành vi phạm tội lây truyền HIV cho người khác và cố ý truyền HIV cho người khác làm tổn thương đến sức khoẻ của người khác, cạnh bên đó, những hành vi phạm tội này còn làm tác động ảnh hưởng đến niềm tin của nạn nhân. Trên trong thực tiễn, nạn nhân của những hành vi phạm tội này sẽ bị nhiễm HIV, vì vậy họ mang tâm ý mặc cảm, thấp thỏm người khác tẩy chay ; khi bị hội đồng, tập thể, mái ấm gia đình phát hiện HIV, bản thân nạn nhân khó chứng tỏ bản thân là nạn nhân của những hành vi phạm tội trên mà thường bị quy chụp là “ vi phạm những tệ nạn xã hội ” ( như quan hệ tình dục với người hành nghề mại dâm hoặc sử dụng ma tuý ). Chính những hệ luỵ của hành vi phạm tội này đã làm cho nạn nhân ảnh hưởng nghiêm trọng đến DDNP của bản thân họ. Chính vì vậy, theo PGS. Trần Văn Luyện và những tập sự ( 2018 ), hành vi phạm tội lây truyền HIV cho người khác và cố ý truyền HIV cho người khác “ cũng làm tác động ảnh hưởng đến nhân phẩm danh dự con người ” [ 5 ]. Cùng với đó, hành vi chống người thi hành công vụ không những xâm phạm đến hoạt động giải trí quản trị xã hội nối chung và hoạt động giải trí quản trị hành chính nói riêng của cơ quan Nhà nước và nó còn tác động ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của cán bộ trực tiếp thi hành trách nhiệm. Do đó, tội lây truyền HIV cho người khác ; tội cố ý truyền HIV cho người khác và tội chống người thi hành công vụ vẫn được xếp vào nhóm những tội xâm phạm DDNP của con người .

3. Nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội danh dự, nhân phẩm
Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải
xác định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến
lược phòng ngừa phù hợp. Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hiện
nay bao gồm:

  • Sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
    trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những
    nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đó là:
  • Hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, trụy lạc của một bộ phận người
    trong xã hội.
  • Đã làm xuống cấp nhiều mặt về văn hoá, đạo đức, lối sống làm mất đi
    truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
  • Đẩy mạnh tốc độ phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hoá giàu nghèo sâu
    sắc, một bộ phận giàu lên nhanh chóng trong đó có một số người làm giàu bất
    chính từ đó dẫn đến phạm tội, mặt khác không ít người không có tư liệu sản xuất
    phải ra thành phố, thị xã làm thuê kiếm sống bị tác động bởí những hiện tượng
    tiêu cực dễ dẫn đến phạm tội.
  • Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế
    độ cũ để lại:
  • Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong
    nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng
    tham lam, ích kỉ, sa đoạ truy lạc trong một bộ phận nhân dân.
  • Tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động tiêu cực, tàn dư
    của chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã hội làm nảy

sinh những hiện tượng kỳ lạ xấu đi trong đó có tội phạm. – Sự xâm nhập ảnh hưởng tác động của tội phạm, tệ nạn xã hội của những vương quốc khác. – Những sơ hở, thiếu sót trong những mặt công tác làm việc quản lí của Nhà nước, những cấp, những ngành gồm có : Sơ hở thiếu sót trong quản lí con người, quản lí văn hoá, quản lí nghề nghiệp kinh doanh thương mại … – Những thiếu sót trong giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hoá của dân cư. – Hệ thống pháp lý chưa triển khai xong, việc thực thi pháp lý kém hiệu suất cao, một số chủ trương về kinh tế tài chính, xã hội chậm thay đổi tạo sơ hở cho tội phạm hoạt động giải trí tăng trưởng. Sự chậm thay đổi chủ trương chủ trương về kinh tế tài chính xã hội và pháp lý đã thể hiện những sơ hở khiến cho một số đối tượng người tiêu dùng tận dụng để hoạt động giải trí phạm tội. – Công tác đấu tranh chống tội phạm của những cơ quan chức năng nói chung và của ngành công an nói riêng còn thể hiện nhiều yếu kém, thiếu sót ; biểu lộ trên những mặt : + Trình độ nhiệm vụ, pháp lý của một bộ phận cán bộ chưa phân phối nhu yếu thực tiễn dẫn đến hữu khuynh tránh mặt, thậm chí còn có một số cán bộ biến chất, tiếp tay cho tội phạm, buông lỏng công tác làm việc đấu tranh trấn áp tội phạm. + Mối quan hệ giữa những cơ quan bảo vệ pháp lý chưa thực sự đồng điệu, thiếu thống nhất trong quy trình tìm hiểu, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, tái tạo phạm nhân. + Số vụ phát hiện, tìm hiểu ít hơn so với trong thực tiễn tội phạm xảy ra, tội phạm ẩn còn nhiều. + Hoạt động tìm hiểu, xử lí tội phạm chưa kịp thời, hiệu suất cao chưa cao, xử lí chưa nghiêm minh. + Hệ thống tổ chức triển khai cỗ máy, phân công chức năng, trách nhiệm giữa những cơ quan bảo vệ pháp lý và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa học, hiệu suất cao quản lý và vận hành chưa cao. – Công tác quản lí Nhà nước về bảo mật an ninh trật tự còn thể hiện nhiều sơ hở. Công tác giáo dục tái tạo chưa xoá bỏ được tư tưởng phạm tội của những đối tượng người dùng, số đối tượng người dùng phạm tội trở lại còn nhiều. – Phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi chưa thực sự can đảm và mạnh mẽ, chưa hiệu suất cao. Chưa phát huy được sức mạnh của quần chúng trong công tác làm việc giáo dục, tái tạo và tái hoà nhập hội đồng cho người phạm tội .

II. NHẬN THỨC VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG TÔI PHẠM XÂṂ
PHẠM DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI KHÁC

1. Khái niệm phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác
a. Khái niệm
Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã
hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân,
điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng

ninh ). + Giám sát ngặt nghèo việc tuân thủ pháp lý trong công tác làm việc đấu tranh phòng chống tội phạm của những cơ quan chức năng, những tổ chức triển khai xã hội. + Hội đồng nhân dân địa phương ra những Nghị quyết về phòng chống tội phạm ở địa phương mình. – nhà nước và uỷ ban nhân dân những cấp. Chức năng chính của nhà nước và Uỷ ban nhân dân những cấp trong phòng chống tội phạm là quản lí, điều hành quản lý, phối hợp, bảo vệ những điều kiện kèm theo thiết yếu, thế hiện : + Cụ thể hoá những thông tư, nghị quyết của Đảng thành những văn bản pháp quy hướng dẫn, tổ chức triển khai những lực lượng phòng chống tội phạm. + Sử dụng những cơ quan chuyên trách của nhà nước thực thi hoạt động giải trí phòng chống tội phạm : Công an, Viện kiểm sát, Toà án. + Phối hợp thực thi đồng nhất hoạt động giải trí giữa những chủ thể khác nhau thuộc cấp mình quản lí theo kế hoạch thống nhất. + Đảm bảo những điều kiện kèm theo vật chất cho hoạt động giải trí phòng chống tội phạm : ngân sách, phương tiện đi lại, điều kiện kèm theo thao tác. + Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát ngặt nghèo và phối hợp kiểm soát và điều chỉnh hoạt động giải trí phòng chống tội phạm phân phối nhu yếu thực tiễn. + Đề ra những giải pháp nhằm mục đích động viên, kêu gọi sức mạnh của toàn xã hội tham gia hoạt động giải trí phòng chống tội phạm : Khen thưởng, nhân rộng những nổi bật tiên tiến và phát triển. + Các cơ quan quản lí kinh tế tài chính, văn hoá, giáo dục, dịch vụ, du lịch trong khoanh vùng phạm vi tổ chức triển khai hoạt động giải trí trình độ. + Phát hiện những nguyên do, điều kiện kèm theo làm phát sinh tăng trưởng tội phạm thuộc nghành nghề dịch vụ mình quản lí. + Đề ra những pháp luật thích hợp, tham mưu cho Nhà nước phát hành những chủ trương, chủ trương đúng đắn góp thêm phần khắc phục những nguyên do, điều kiện kèm theo của tội phạm. + Xây dựng và tổ chức triển khai thực thi những giải pháp phòng ngừa tội phạm trong khoanh vùng phạm vi cơ quan có hiệu suất cao. + Phối hợp ngặt nghèo với chính quyền sở tại những cấp, làm tốt công tác làm việc phòng chống trong nội bộ, ngoài xã hội theo chương trình chung của nhà nước. – Các tổ chức triển khai xã hội, những tổ chức triển khai quần chúng tự quản. Các tổ chức triển khai đoàn thể trên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong công tác làm việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đơn cử : + Phối hợp, tương hỗ chính quyền sở tại địa phương, những cơ quan trình độ soạn thảo, tham gia kế hoạch phòng ngừa tội phạm. + Tuyên truyền cho hội viên thấy được đặc thù, thủ đoạn hoạt động giải trí của tội phạm nâng cao ý thức cẩn trọng. + Trực tiếp kêu gọi những hội viên tham gia chương trình phòng chống tội phạm của nhà nước trong khoanh vùng phạm vi địa phương, nội bộ hiệp hội của mình. – Các cơ quan bảo vệ pháp lý : Công an, Viện kiểm sát, Toà án + Nghiên cứu, nghiên cứu và phân tích thực trạng phạm tội, xác lập đúng mực những nguyên do, điều kiện kèm theo của tội phạm, soạn thảo yêu cầu những giải pháp phòng chống thích hợp .

  • Sử dụng các biện pháp luật định và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn
    theo chức nãng, trực tiếp tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
  • Đối với lực lượng công an phải trực tiếp tổ chức, triển khai các hoạt động
    phòng ngừa tội phạm theo hai hướng: Tham gia phòng ngừa xã hội (phòng ngừa
    chung) và trực tiếp tiến hành toàn diện hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ, điều
    tra tội phạm.
  • Viện kiểm sát: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động
    điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân, giữ quyền
    công tố.
  • Toà án các cấp: Thông qua hoạt động xét xử các vụ án đảm bảo công
    minh, đúng pháp luật; phát hiện những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm để
    Chính phủ, các ngành, các cấp kịp thời có biện pháp ngăn chặn, loại trừ.
  • Bộ Tư pháp trực tiếp tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
    có liên quan đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, khắc phục những sơ
    hở thiếu sót là nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
    – Từng Công dân. Công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong sự nghiệp bảo
    vệ an ninh trật tự. Công dân với tư cách là chủ thể trong phòng chống tội phạm
    phải quán triệt:
  • Thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong
    Hiến pháp, tích cực tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.
  • Tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội phạm và thông báo
    cho các cơ quan chức năng.
  • Tham gia nhiệt tình vào công tác giáo dục, cảm hoá các đối tượng có liên
    quan đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân cư.
  • Phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thực
    hiện tốt “Chiến lược quốc gia phòng chống tội phạm”. Thực hiện tốt các phong
    trào: “Toàn dân tham gia phòng chống tội phạm, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo
    dục người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư”, làm tốt công tác tái hoà
    nhập cộng đồng cho người phạm tội khi trở về địa phương.
  • Trực tiếp làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm ngay trong phạm vi gia
    đình (quản lí, giáo dục các thành viên trong gia đình).

b. Nguyên tắc tổ chức hoạt động phòng chống tội phạm
– Nguyên tắc pháp chế: Mọi họat động phòng ngừa tội phạm của các cơ
quan nhà nước, tổ chức, các công dân phải hợp hiến và hợp pháp.
– Nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa: Mọi cơ quan tổ chức công dân đều
có thể tham gia họat động phòng ngừa tội phạm và nhà nước phải tạo mọi điều
kiện cho các chủ thể tham gia họat động phòng ngừa tội phạm được phát huy
mọi nguồn lực trong xã hội vào việc phòng ngừa tội phạm.
– Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa: Các biện pháp phòng ngừa tội
phạm không được hạ thấp danh dự nhân phẩm con ngừơi mà phải nhằm khôi
phục con người và tạo điều kiện để con người phát triển.
– Nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong phòng ngừa: Các biện pháp phòng
ngừa tội phạm phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, các thành tựu khoa học
nhất định, phải ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ trong việc

Hoàn thiện chính sách, chủ trương đặc trưng so với những cán bộ kiêm nhiệm và những người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia công tác làm việc phòng, chống tội phạm .

Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc.

Đổi mới về nội dung, hình thức, giải pháp thiết kế xây dựng trào lưu toàn dân bảo vệ bảo mật an ninh Tổ quốc tương thích và cung ứng nhu yếu trách nhiệm bảo vệ bảo mật an ninh, trật tự trong từng thời kỳ ; tập trung chuyên sâu thiết kế xây dựng và củng cố trào lưu ở những địa phận trọng Điểm, kế hoạch, vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, vùng biên giới, biển hòn đảo, khu công nghiệp và những thành phố lớn ; lồng ghép với những cuộc hoạt động, trào lưu thi đua, chương trình tăng trưởng kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, xã hội của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, Ban, ngành, đoàn thể và địa phương ; kết nối thực thi tốt quy định dân chủ ở cơ sở, kịp thời phát hiện, xử lý ngay tại cơ sở những yếu tố có tương quan đến quyền lợi chính đáng của dân cư, hạn chế không để xảy ra “ Điểm nóng ” trong hội đồng dân cư, góp thêm phần củng cố lòng tin của nhân dân so với Đảng, Nhà nước và những cơ quan bảo vệ pháp lý. Thường xuyên nâng cấp cải tiến hình thức, chiêu thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức nghĩa vụ và trách nhiệm của nhân dân về phòng, chống tội phạm : Kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền, vừa thoáng rộng, vừa mở đợt tập trung chuyên sâu, vừa tuyên truyền riêng biệt ; tuyên truyền qua những phương tiện thông tin đại chúng, những cuộc họp của tổ chức triển khai Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức triển khai chính trị xã hội, đơn vị chức năng, trường học, tổ dân phố, cụm dân cư. Chú trọng hình thức tuyên truyền, hoạt động riêng biệt so với những đối tượng người tiêu dùng có rủi ro tiềm ẩn phạm tội, tái phạm và tại những địa phận trọng Điểm về trật tự, bảo đảm an toàn xã hội. Thành lập trang thông tin điện tử trào lưu toàn dân bảo vệ bảo mật an ninh, trật tự. Đẩy mạnh công tác làm việc kiến thiết xây dựng quy mô, nhân nổi bật tiên tiến và phát triển trong trào lưu toàn dân bảo vệ bảo mật an ninh Tổ quốc ; chú trọng tăng trưởng và nâng cao chất lượng những quy mô tổ chức triển khai quần chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về bảo mật an ninh, trật tự ngay từ mái ấm gia đình, hội đồng dân cư, trong từng cơ quan, đơn vị chức năng, doanh nghiệp và nhà trường ; liên tục tổ chức triển khai sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm tay nghề, nhân rộng quy mô có hiệu suất cao cao, nghiên cứu và điều tra thiết kế xây dựng những quy mô mới tương thích với tình hình đặc Điểm từng địa phận. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân viên, học viên, sinh viên ký cam kết kiến thiết xây dựng khu dân cư, xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường “ An toàn về bảo mật an ninh, trật tự ”. Kịp thời khen thưởng những tập thể, cá thể có thành tích xuất sắc trong trào lưu toàn dân bảo vệ bảo mật an ninh Tổ quốc, có chủ trương thỏa đáng so với những trường hợp bị thương, quyết tử hoặc thiệt hại về gia tài khi tham gia phòng, chống tội phạm. Tăng cường nguồn lực cho công tác làm việc thiết kế xây dựng trào lưu toàn dân bảo vệ bảo mật an ninh Tổ quốc. Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức triển khai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách, nhất là những lực lượng Công an xã, Dân quân tự vệ, Bảo vệ dân phố, Bảo vệ chuyên trách những cơ quan, doanh nghiệp ; phát huy vai trò Bí thư chi bộ, Trưởng khu dân cư, Trưởng Ban công tác làm việc mặt trận và những đoàn thể ở cơ sở, những người có uy tín trong dòng họ ; dân tộc bản địa, tôn giáo, những vị chức sắc tiêu biểu vượt trội, những nổi bật … làm chỗ dựa cho nhân dântrong phòng, chống tội phạm ở cơ sở ; góp vốn đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất và Điều kiện bảo vệ ship hàng công tác làm việc kiến thiết xây dựng trào lưu .

Ba là, quản lý, giáo dục cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng đối với người
phạm tội, vi phạm pháp luật và đối tượng có nguy cơ phạm tội.

Nâng cao chất lượng, hiệu suất cao công tác làm việc giam giữ, quản trị, giáo dục tái tạo những loại đối tượng người tiêu dùng ; tập trung chuyên sâu giáo dục riêng biệt so với số phạm nhân liên tục vi phạm nội quy cơ sở giam giữ, giảm tỷ suất phạm nhân tái tạo kém. Chủ động phát hiện và kiểm soát và chấn chỉnh kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong công tác làm việc giam giữ, quản trị, giáo dục tái tạo và triển khai chính sách, chủ trương so với những loại đối tượng người tiêu dùng giam giữ, quản trị không để phát sinh bức xúc, phản ứng xấu đi, gây rối, chống đối tập thể, gây mất bảo mật an ninh, bảo đảm an toàn cơ sở giam giữ, quản trị. Chủ động thực thi những giải pháp giúp phạm nhân sẵn sàng chuẩn bị tái hòa nhập ngay trong quy trình chấp hành án, đồng thời triển khai có hiệu suất cao những giải pháp bảo vệ tái hòa nhập hội đồng so với người chấp hành xong án phạt tù. Tiếp tục thay đổi công tác làm việc giáo dục dạy nghề, truyền nghề, tạo việc làm cho phạm nhân, trại viên, học viên. Tăng cường quản trị, giám sát ngặt nghèo người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án, người được tha tù trước thời hạn có Điều kiện. Lồng ghép công tác làm việc tái hòa nhập hội đồng so với người chấp hành xong án phạt tù với những chương trình, kế hoạch, kế hoạch tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội và công tác làm việc phòng, chống tội phạm ở từng địa phương. Cân đối, sắp xếp nguồn lực của Trung ương và những địa phương, nguồn lực xã hội bảo vệ triển khai có hiệu suất cao những giải pháp bảo vệ tái hòa nhập hội đồng so với người chấp hành xong án phạt tù. Xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền sở tại, hiệu suất cao phối hợp của những ngành, đoàn thể, tổ chức triển khai, cá thể trong quản trị và giám sát thi hành những hình phạt ngoài hình phạt tù, những đối tượng người tiêu dùng được vận dụng giải pháp giáo dục tại xã, phường, thị xã và những đối tượng người tiêu dùng có rủi ro tiềm ẩn phạm tội trên địa phận .

Bốn là, tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước về trật tự xã hội,
tập trung quản lý nhà nước về cư trú, xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, truyền thông, xuất bản… Đổi mới phương thức quản lý
một số ngành nghề kinh doanh có Điều kiện không để tội phạm lợi dụng hoạt
động, nhất là dịch vụ cầm cố, thế chấp tài sản, vũ trường, quán bar, karaoke,
game, bán hàng đa cấp… Tăng cường quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ
trợ. Đổi mới chính sách, biện pháp quản lý và xử lý đối với các hoạt động tệ nạn
xã hội (mại dâm, cờ bạc, nghiện ma túy).

Năm là, đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ
Chấn chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các biện pháp công
tác nghiệp vụ, đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác nắm tình hình,
thống kê tội phạm, chủ động nắm diễn biến tình hình hoạt động của các loại tội
phạm trên các tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng Điểm; chủ động rà soát, lập hồ sơ
quản lý đối với các đối tượng có dấu hiệu hoạt động phạm tội “đâm thuê, chém
mướn”, “bảo kê”, “xiết nợ”, đòi nợ thuê, cho vay lãi nặng, cưỡng đoạt tài sản, tổ
chức trái phép các hoạt động cờ bạc, cá độ thể thao, các hoạt động chuyển giá,

về chính trị, kinh tế, văn hoá, pháp luật, giáo dục.
+ Phòng chống riêng (phòng và chống của lĩnh vực chuyên môn) là việc
áp dụng các biện pháp mang tính đặc trưng, chuyên môn của từng ngành,
từng lực lượng, trong đó có hoạt động của cơ quan công an với vai trò nòng
cốt, xung kích.
– Khi nghiên cứu các biện pháp phòng chống tội phạm có thê phân loại
thành các hệ thống biện pháp phòng chống như sau:
+ Theo nội dung tác động của phòng ngừa tội phạm: Biện pháp kinh tế,
biện pháp giáo dục, biện pháp tổ chức, biện pháp pháp luật.
+ Theo phạm vi, quy mô tác động của các biện pháp phòng chống tội phạm:
Có các biện pháp trong một tỉnh, một thành phố, trên phạm vi cả quốc gia.
+ Theo phạm vi các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, xã hội, như: Phòng
ngừa trong các khu vực: kinh tế, tuyến giao thông trọng điểm.
+ Theo phạm vi đối tượng tác động của biện pháp phòng chống tội phạm, có:
* Các biện pháp phòng chống tội phạm nói chung trong cả nước: Kinh tế,
chính trị, giáo dục.
* Biện pháp phòng chống cá biệt: Đối với từng đối tượng phạm tội cụ thể.
– Theo chủ thể hoạt động phòng chống tội phạm:
+ Biện pháp của các cơ quan trực tiếp chỉ đạo và thực hiện chuyên môn
phòng chống tội phạm: Công an, Viện kiểm sát, Toà án.
+ Biện pháp của các tổ chức xã hội: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ.
+ Biện pháp của công dân.
5. Phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm trong nhà trường
a. Trách nhiệm của nhà trường:
– Thực hiện đầy đủ chương trình phòng chống tội phạm xâm phạm danh
dự, tính mạng trong nhà trường; tuyên truyền giáo dục các chương trình quốc
gia phòng chống tội phạm để cho sinh viên thấy được trách nhiệm của mình, của
nhà trường trong đấu tranh phòng chống tội phạm danh dự, tính mạng, từ đó tự
giác tham gia.
– Xây dựng nhà trường trong sạch, lành mạnh không có các hiện tượng tiêu
cực, tệ nạn xã hội và tội phạm. Xây dựng quy chế quản lí sinh viên, quản lí kí
túc xá, các tổ chức sinh viên tự quản, tổ thanh niên xung kích để tuần tra kiểm
soát trong khu vực trường.
– Tổ chức cho sinh viên tham gia kí kết không tham gia tệ nạn xã hội,
không có hành vi hoạt động phạm tội. Tổ chức cho sinh viên tham gia các cuộc
thi tìm hiểu về pháp luật Hình sự, phòng chống tệ nạn xã hội, tôi phạm nóị
chung trong đó có tôi phạm danh dự, tính mạng.̣
– Phát động các phong trào trong nhà trường hưởng ứng các cuộc vận động
toàn dân tham gia phòng chống tội phạm với nội dung, hình thức phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường.
– Phối hợp với lực lượng công an cơ sở trong rà soát phát hiện, cung cấp
số sinh viên có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội để có biện pháp quản
lí, giáo dục; đấu tranh xoá bỏ các tụ điểm hoạt động tệ nạn xã hội ở khu vực
xung quanh trường.

b. Trách nhiệm của sinh viên:

  • Không ngừng học tập nâng cao kiến thức, ý thức pháp luật và nội dung cơ
    bản nhất về phòng ngừa tội phạm. Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho mọi
    người. Chấp hành nghiêm chỉnh những nội quy, quy định của nhà trường trong
    lĩnh vực học tập, sinh hoạt tập thể.
  • Trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tội phạm, tham gia vào các
    tổ chức thanh niên xung kích tiến hành tuần tra, kiểm soát bảo vệ an ninh trật tự
    trong khu vực trường, lớp; phát hiện các hiện tượng tiêu cực có thể nảy sinh
    trong trường, lóp ; các quan hệ nam nữ không lành mạnh, các hành vi nghi vấn
    nghiện ma tuý, cờ bạc, chơi lô đề, cá cược bóng đá… có thể dẫn đến tội phạm
    nói chung và tôi phạm danh dự, tính mạng.̣
  • Khi có vụ phạm tội xảy ra trong khu vực trường, lóp phát hiện và cung
    cấp cho cơ quan chức năng những thông tin có liên quan đến vụ việc phạm tội,
    người phạm tội; tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi người mà có thể tham
    gia cộng tác giúp đỡ lực lượng công an một cách công khai hay bí mật.

KẾT LUẬN
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm và
danh dự được Hiến pháp và pháp luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Tội này gồm
các nhóm về xâm hại tình dục, buôn bán người, làm nhục người khác và một số
tội khác. Để phòng chống tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đòi
hỏi có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từng người dân và học sinh, sinh
viên trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt./.

HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU

Câu hỏi 1. Thế nào là tội xâm hại danh dự, nhân phẩm của người khác?
Nguyên nhân, điều kiện phát triển của tội phạm trên?

Câu hỏi 2. Nội dung hoạt đông phòng chống tội phạm xâm phạm danh dự,̣
nhân phẩm? Vai trò, trách nhiệm của nhà trường và sinh viên trong công tác
này?

Ngày tháng năm 202
NGƯỜI BIÊN SOẠN