SKKN một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 – Tài liệu text

SKKN một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.86 KB, 24 trang )

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

MỤC LỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM- ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 1……………………………………………………………………………0
A Mở đầu…………………………………………………………………………………………………1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI……………………………………………………………………………1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI……………………………………………..1
III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU………………………………………………………………..1
IV.ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM…………………………………………1
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………………………………………………………..1
VI.PHẠM VI NGHIÊN CỨU…………………………………………………………………….2
VII. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU……………………………………………………………….2
B.Nội dung………………………………………………………………………………………………3
Chương I – CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG………………………………………………………..3
I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC………………………………..3
1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học………………………………………………………………….3
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học……………………………………………………………4
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC……………………………5
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc……………………………………………………..5
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc……………………………………………6
3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh lớp 1…………………………………..7
a. Đặc điểm chung của địa phương……………………………………………………………..7
b. Đặc điểm chung của lớp 1B……………………………………………………………………7
Chương II – THỰC TRẠNG DẠY HỌC……………………………………………………..8
I. Tình hình – Kết quả khảo sát điều tra……………………………………………………….8
II. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc………………………9
Chương III- ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC…………………………………….10
I. Biện pháp tác động giáo dục………………………………………………………………….10
II. Phần học các nét cơ bản……………………………………………………………………….10
III. Phần học âm……………………………………………………………………………………..12

IV. Phần học vần…………………………………………………………………………………….14
V. Phần Tập đọc……………………………………………………………………………………..15
VI. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học…………………………………………..16
VII. Những phương tiện dạy học……………………………………………………………….18
C. Kết luận và kiến nghị…………………………………………………………………………..19
I. Kết luận……………………………………………………………………….19
II. Kiến nghị……………………………………………………………………..19
A. PHẦN MỞ ĐẦU

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
I. Lí do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, hình
thành 4 kỹ năng: Nghe – nói – đọc – viết cho học sinh.
Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới
để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kĩ năng viết được coi là phương
tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng
không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Cùng với
kĩ năng viết, kĩ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để
vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe
lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo…Từ đó có điều
kiện học tốt các môn học học khác.
Ở lớp 1 các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kĩ
năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các
em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy,
cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu,
đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn
học khác. Mặt khác, ở lớp 1, các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi

chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ
ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập tốt.
Bắt đầu học đọc, học viết nên các em lớp 1 còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu
kiến thức thật khó khăn, nhiều em chưa nắm vững các chữ cái. Nếu không được
quan tâm, rèn luyện thì chất lượng học tập của các em không cao. Theo tôi, để
nâng cao chất lượng học sinh phải giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản
ngay từ lớp 1. Mà đa số các em đọc chưa tốt đều do chưa thuộc kĩ âm, vần, chưa
đọc thông viết thạo cho nên việc giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt hơn rất quan
trọng. Đó là lí do tôi chọn” Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1” để
nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm, mong muốn các em đều
đọc tốt có nền móng cơ bản để học các lớp trên.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài ‘’Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1’’nhằm
góp phần nâng cao hơn nữa kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 – Trường Tiểu học
Hướng Phùng.
III. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1.
IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm:
Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Hướng Phùng.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
1. Phương pháp quan sát
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-2-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
2. Phương pháp điều tra
3. Phương pháp luyện tập thực hành.
4. Phương pháp đàm thoại.

5. Phương pháp hoạt động theo nhóm nhỏ.
5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
VI. Phạm vi nghiên cứu
Những biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 để nâng cao chất lượng dạy
học.
VII. Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015.

B. PHẦN NỘI DUNG
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-3-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học
a. Khái niệm đọc:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn
dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là
một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời
nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá
trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm
thanh (ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát
âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như
các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông

hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái
niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến
việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được
chú ý đúng mức.
b. Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp
thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có
hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người
đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá
cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con
người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp
được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của
người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ
được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ
tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được
bồi dưỡng tâm hồn không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ
sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách
toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan
trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học
nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa
to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người
đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em
chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-4-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo
điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một
khả năng không thể thiếu được của con người văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một
cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn
còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học
Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và
phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập
đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng
yêu cầu này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhằm giúp học sinh
sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và
chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc
với tư cách là một phân môn Tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học mà
học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng
cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,
trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay
còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong 2
hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và
hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích
cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như
cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình
đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được
rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay
chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem

nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua
việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi
ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức
về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và
tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-5-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc

Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc,
nắm bản chất của kĩ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay
cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học.
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc
tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác.
Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
– Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận
động của mắt, sử dụng bộ mã chữ – âm để phát ra một cách trung thành nhưng
dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng,
tình cảm, sử dụng bộ mã chữ – nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý
tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung

những gì được đọc.
– Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các
cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng
ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người
mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao
nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.
– Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc” được sử dụng trong nhiều
nghĩa : Theo nghĩa hẹp, việc hình thành kĩ năng đọc trùng với nắm kĩ thuật đọc
(tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng,
đọc được hiểu là kĩ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). Ý nghĩa
hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương
pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai – đọc được xem
như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố:
1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ
2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ
theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ
nắm kĩ thuật đọc.
3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kĩ năng đọc là một
kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. Chia việc hình thành kĩ
năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh,
hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai
đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai
đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị
giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-6-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
nghĩa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực
hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng
hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là
người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến
việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các
phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đến
những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng đọc và hình
thành kĩ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học
đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý
thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biết
đọc khi nó đọc mà hiểu trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu
trẻ không hiểu được những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng
thú học tập và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ
tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc.
Để có giờ học vần kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất kĩ năng cơ
chế mục đích cần đạt được của tiết dạy học vần. Trên cơ sở đó sử dụng phương
pháp cho phù hợp.
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy học vần phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính
âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của
câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu
câu… Phương pháp dạy học học vần phải dựa trên những kết quả nghiên cứu
của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập
nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời
những cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc
dạy học sẽ mang tính tuỳ tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
a. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt

Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả
về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có
nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn
hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng
chính âm.
b. Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần
của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo
thành lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn
ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-7-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
(cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển
giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ
bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm
điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ
những yếu tố này.
3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1
a. Đặc điểm chung của địa phương
Hướng Phùng là một trong những xã khó khăn của vùng Bắc Hướng Hóa,
đa số học sinh là con em đồng bào Vân Kiều, điều kiện kinh tế và đi lại còn gặp
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, phụ huynh chưa có đủ điều kiện và chưa có sự
quan tâm đến việc học của con em. Nhưng nhờ sự quan tâm của chính quyền địa
phương, sự chỉ đạo sát sao và kịp thời của Chuyên môn nhà trường, tổ khối, đã

vận động, huy động để các em đến lớp đều đặn hơn, đặc biệt là những em học
sinh còn đọc chưa tốt, giúp các em có cơ hội rèn luyện việc đọc của mình nhiều
hơn.
b. Đặc điểm chung của lớp 1B
– Tổng số lớp là 30 em, trong đó có 12 nữ.
– Tất cả các em là người Vân Kiều, môi trường tiếp xúc và sử dụng tiếng
Việt còn nhiều hạn chế.
– Số học sinh đã qua mầm non ít.
– Lớp học đông, đã biết chữ cái còn rất ít.
– Học sinh chưa quen với môi trường học tập ở trường Tiểu học, còn rụt
rè.
– Cơ sở vật chất còn thiếu.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-8-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Chương II
THỰC TRẠNG DẠY HỌC
I. Tình hình – Kết quả khảo sát điều tra
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1B Trường Tiểu
học Hướng Phùng với nội dung sau:
– Kiểm tra sự phát triển về thể chất của các em.
– Nhận xét về sự quan tâm của gia đình đối với việc học của con em.
– Tìm hiểu số học sinh đi học mầm non và số học sinh không đi học mầm
non hoặc đi học không đều, tìm hiểu lý do học sinh không đi học mầm non.
– Kiểm tra sự sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm
non.
– Kiểm tra học sinh đã biết hoặc chưa biết cầm bút.

Kết quả thu được như sau :
– Một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm
theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
– Phụ huynh trong lớp là người dân tộc thiểu số, hầu hết không biết chữ
chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm
cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.
– Tổng số học sinh trong lớp là 30 em:
Học sinh không đi học mầm non: 10
Học sinh đi học không đều : 13 em
Học sinh đi học đều : 7 em .
– Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái :
+ Tổng số : 30 em
+ Không biết chữ cái : 18 em
+ Biết từ 3 – 5 chữ : 07 em
+ Nhận biết các chữ : 5 em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện chưa chắc chắn, chính xác bảng chữ cái
quá thấp nên dẫn đến kết quả học tập của học sinh sẽ không cao. Một trong
những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em
chưa chăm chỉ học. Vì vậy, chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng
đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Biết lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức tiết học sao cho các em luôn cảm giác thoải mái thích
thú, thích được tham gia học một cách tự nguyện không gò ép. Giáo viên phải
gần gũi, yêu thương, động viên kịp thời để học sinh thích học. Nhận thức được
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-9-

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
điều này và thấy rõ được những khó khăn cơ bản tôi đã thực hiện một số biện
pháp. Rèn kĩ năng đọc cho các em học sinh lớp 1 để các em có điều kiện học tốt

cùng các bạn trong lớp.
II. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc:
Hiện nay ở Tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: Phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc
theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp.
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số
kết luận sau:
* Thời lượng rèn đọc có vị trí quan trọng ở Tiểu học.
* Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc rèn đọc và nhiệm vụ chính
của dạy đọc.
* Trong giờ học môn Tiếng Việt giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để
các em tự phát hiện ra cách đọc.
* Trong giờ học nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến
học sinh đọc chưa tốt vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm
giảm tiến độ của tiết dạy.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 10 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Chương III
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và thực trạng của việc
dạy- học đọc hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở Tiểu
học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở
thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn đọc để nâng cao kĩ năng
đọc cho học sinh lớp 1.
I. Biện pháp tác động giáo dục
– Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề

nghị nhắc nhở con em đi học đầy đủ, yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở, đồ
dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
– Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm
bài ở nhà của học sinh.
– Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách cho học sinh có hoàn cảnh khó
khăn.
– Xây dựng đôi bạn cùng tiến.
– Xây dựng nề nếp kiểm tra bài 15 phút đầu giờ của từng bàn sau đó tặng
cờ thi đua cho các nhóm.
– Cùng với tổ chuyên môn thảo luận về ý tưởng các biện pháp rèn đọc cho
học sinh của mình.
– Chuẩn bị bài dạy thật kĩ, có kiến thức phù hợp cho các đối tượng học
sinh, lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp tạo hứng thú cho
học sinh.
– Trong quá trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh hoạt các
phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc trưng của phân môn và phù hợp với
nội dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước hết giáo viên
phải sử dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinh
nghe, yêu cầu giọng đọc của giáo viên phải chuẩn, diễn cảm thể hiện đúng nội
dung, ý nghĩa của bài học để học sinh bắt trước đọc theo. Sau đó giáo viên phải
kết hợp phương pháp luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc chính xác các
phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh.
– Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố khác
như cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn tích
cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu phối hợp các yếu tố
trên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể hiện được nội dung của
bài học, thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua từng bài học.
II. Phần học các nét chữ cơ bản:
Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ
bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 11 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có
tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và
so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ
cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
Ví dụ: Các nét chữ cơ bản và tên gọi.
Nhóm 1

Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nét xiên phải (giống dấu thanh
huyền)
Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc)

Nhóm 2

Nét móc xuôi (chữ l)
Nét móc ngược (chữ n, m)
Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph)

Nhóm 3

Nét cong hở phải (chữ c)
Nét cong hở trái (chữ x)
Nét cong kín (chữ o, ô, ơ)

Nhóm 4

Nét khuyết trên (chữ h, l, b)
Nét khuyết dưới (chữ g, y)
Nét thắt (chữ b, v, r)
Nét khuyết, có nét thắt ở giữa
(chữ k)

Tôi chuẩn bị những đoạn dây dù đủ màu sắc làm hình nét chữ để giới
thiệu và khuyến khích học sinh cùng làm theo, giúp các em dễ thuộc các nét hơn
vì đã được trải nghiệm. Cho học sinh đọc tên gọi các nét nối tiếp nhau, đọc xuôi
đọc ngược nhiều lần để các em nhớ. Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắc
sâu kiến thức của các em bằng cách tổ chức trò chơi:” Đoán nét chữ” trong hoạt
động củng cố. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ
cái và thu hút các em tập trung hơn. Ví dụ: Đố con, chữ a gồm có nét gì? Chữ a:
nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín? Chữ o (ô,ơ). Tôi đã
tuyên dương các em trả lời tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to.
Vì các em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình thức khi trả lời đúng, nhất
là các em đọc chưa tốt hoặc đọc chậm đó là sự khích lệ rất lớn với các em. Đây
là bài học đầu tiên trong phần Học vần nên cần tạo cho các em tâm thế học tập
thoải mái, gần gũi, gây sự hứng thú.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 12 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
III. Phần học âm:
Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản
một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ
cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới

ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau
tạo thành từ và thành câu.
Giai đoạn này tôi dạy cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong
từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác
nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh
hiểu và nhận biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo các
em dễ hiểu và không bị lúng túng.
Ví dụ:
Âm: a – a, g – g.
+ Âm a gồm hai nét: nét cong khép kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên
phải; chữ a cũng gồm nét cong khép kín và nét móc ngược.
+ Âm g gồm : nét cong khép kín và nét móc dưới.
Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp
học sinh phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau:
d; b; p; q.
Ví dụ:
+ Âm d gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng nằm bên
phải. Đọc là: “dờ”.
+ Âm b gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở
bên trái. Đọc là: “ bờ”. Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại
với nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để
nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.
Ví dụ :
+ Các âm ghép: c + h = ch, n + h = nh, t + h = th, k + h = kh, g + h = gh, ng +
h = ngh.
+ Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ.
+ Phân từng cặp: ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh, nh – d để phát âm chính xác
và viết chính tả phân biệt.
Trong khi luyện phát âm tôi chú ý luyện phát âm đúng cho các em ở
Hướng Phùng thường phát âm sai s với x, các dấu thanh. Ví dụ : Âm s thì kỉ

thuật phát âm là uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không có
tiếng thanh – tôi làm mẫu nhiều lần cho các em, âm x thì khi phát âm đầu lưỡi
tạo ra với môi răng một khe hẹp, hơi thoát ra xát nhẹ, không có tiếng thanh. Với
phương pháp như vậy với các âm mà các em hay nhầm lẫn.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 13 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Trong các tiết học, các bài học tôi luôn thay đổi hình thức kiểm tra các
âm, chữ cái của học sinh thông qua trò chơi, các em tự đố nhau khi trò chuyện
và lúc đó tôi cũng là một thành viên tích cực trong hoạt động này (Đặc biệt là
các tiết ôn tập). Từ đó, củng cố thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh
sự đơn điệu của các bài ôn tập trong sách. Một hình thức mà tôi cảm thấy rất
tâm đắc đó là viết phiếu, có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có
thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính
giáo dục và rất gần gũi với các em.
Ví dụ:
Trường, lớp, bạn, chăm học, ngoan ngoãn, học giỏi, bút chì, thước kẻ, bàn ghế,
vở ô li, sạch sẽ, vệ sinh, bố mẹ, ông bà, anh chị, em bé, cô giáo, thầy giáo ……
Lớp học của Lê rất vui. Ngày ngày, các bạn rất chăm học. Cô giáo Lê hài lòng
lắm.
Cả trong những khi kiểm tra bài có thể là bảng con cũng có khi là phiếu
cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần
mới học xong, từ đó không lấy trong sách ra.
Ví dụ :
Muốn kiểm tra vần eo, ao thì tôi viết bảng con có các từ không có trong
sách như: cái kẹo, theo dõi, chèo bẻo, kéo co, chào hỏi, cao to, bà lão,….tương
tự như thế với các bài khác.
Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kỳ một từ mới nào các em cũng

đọc được.
Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học
sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng,
từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghĩa của các từ mà các em tìm
được của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó phong trào tìm tiếng, từ mới học
sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Những đọan văn hay
bài văn mang tính chất:
– Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng.

Ví dụ:
o

a

c

d

đ

/

\

?

~

.

giỏ đỏ có cà.
– Cung cấp vốn từ, câu phong phú.
Ví dụ:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 14 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
U

ư

y

n

m

l

b

Dì Ly là y tá ở tổ y tế.
Bà Tư bế bé Lệ đi từ từ.
Bố Tú đi mô tô đỏ.
Mẹ Na mổ cá mè.
* ng, ngh, nh,

th.

Má Nga là ca sĩ .
Ba Tú đi xe mô tô về nhà cô Thu.
Bé Nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ.
Để rèn kĩ năng sống cho học sinh, thông qua hoạt động luyện nói tôi vận
dụng các vần, tiếng, từ đã học để tạo thành những câu văn, đoạn văn có nội dung
mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi
đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 26/3, 15/5, 19/5,20/ 11, 22/12… để xây dựng
bài cho học sinh đọc và nói.
IV. Phần học vần:
Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn
văn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc chữ hoa sau dấu
chấm, các danh từ riêng tên gọi.
– Bài: Ôn các vần có âm m cuối.
am ăm âm om ôm ơm em êm im um.
+Bà Tâm đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thêm đến thăm bà
và đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn bố mẹ Thêm. Bà còn khen em lớn quá.
+Hôm qua nghỉ học, mẹ cho Thêm đi xem thú.Thêm nhìn rõ chú nhím nằm thu
lu bên mẹ nó .
+Hôm nay trời rất rét, mẹ nhắc Nga đi học phải mặc thêm áo ấm.
– Vì thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã
chia chất lượng của lớp ra làm 4 nhóm:
+ Nhóm đọc tốt
+ Nhóm đọc tương đối nhưng tốc độ còn chậm
+ Nhóm đọc được một số chữ, vần
+ Nhóm chưa đọc được .
– Và phân công:
+ Nhóm đọc tốt kèm nhóm chưa đọc được.
+ Nhóm đọc tương đối nhưng tốc độ còn chậm – kèm nhóm đọc được một số
chữ, vần.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng

– 15 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
– Trong kế hoạch bài dạy tôi chuẩn bị các kiến thức phù hợp cho cả 4 đối
tượng.
Hàng ngày tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho nhóm học sinh đọc tốt. Những ngày
đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh đọc tốt, biết được các em đã đọc trôi chảy,
lưu loát rồi thì khi nhận được nhiệm vụ là các em sẽ kiểm tra bạn một cách
chính xác. Từ những điều học sinh đọc tốt tiếp thu được các em sẽ in sâu và
truyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, nhóm học sinh đọc được một số chữ, vần và
nhóm chưa đọc được dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy:
” Học thầy không tày học bạn “.
Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ
song trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cũng
cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong tương đối
đồng đều. Song không phải giao phó hoàn toàn cho học sinh đọc tốt mà tôi vẫn
thường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh đọc được một số chữ, vần và chưa
đọc được. nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng hơn.
V. Phần tập đọc:
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh
đọc chưa tốt. Học sinh đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào
bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết
tốt. Còn học sinh đọc chưa tốt các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác
vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu
rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần
hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ
dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em
đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên
nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc

trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc
trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1)
* Học sinh chưa đọc được tiếng’’ trường’’, giáo viên nên cho các em
đánh vần tiếng ‘’trường’’ bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
HS: trờ – ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Hs: Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: Trường em.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 16 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
* Học sinh không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm?
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ- ng- ương, ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta
đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ – ương – trương- huyền – trường, trường
Và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần
để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.

VI. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm
đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào
được coi là vạn năng, giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều
phương pháp để giúp học sinh có kĩ năng đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một
số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học:
* Phương pháp trực quan
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật, tranh ảnh tự
nhiên hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu,
đánh vần mẫu, đọc mẫu.
Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l, giáo viên phải phát âm mẫu và cho học
sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được.
* Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu
biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: – Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….)
– Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anhchanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe,
nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt
học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong
mỗi ngày.
* Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 17 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc
chậm, đọc chưa tốt để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh có kĩ
năng đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối

với học sinh kĩ năng đọc chưa tốt tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi
các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như
ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi đến tận chỗ ngồi
của học sinh đọc chưa tốt để hướng dẫn đọc từng tiếng, từ học sinh chưa đọc
được. Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em
trong giờ ra chơi nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi. Khi
các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần
quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv… để các em thích thú và
cố gắng hơn.
* Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí
cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt, em đọc tốt ngồi gần em đọc
chưa tốt để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh đọc chưa tốt được ngồi ở
dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi
các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi
( trong cùng bàn ) để học sinh đọc chưa tốt đọc theo học sinh đọc tốt và học sinh
đọc chưa tốt cũng được luyện tập nhiều hơn.
* Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng
tham gia.
VD Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn
nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường
hay chọn các học sinh đọc chưa tốt để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng
đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đúng
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh đọc tốt) đọc cho
hai học sinh đọc chưa tốt chỉ vào âm, vần, tiếng, từ do bạn đọc. Trò chơi này học
sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi.
* Phương pháp nhận xét nêu gương.

Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh
đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh đọc chưa tốt để
giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn
đọc tốt trong lớp.
VD: Bạn Điểm, bạn Thu, bạn Hằng,bạn Nguyệt,… đọc tốt, học tốt vì các
bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố
gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 18 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các
em cũng sẽ đọc tốt như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : Đọc
chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và
cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được
ngay mới thôi.
VII. Những phương tiện dạy học:
Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham học
giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như
sau:
Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan
sát tìm hiểu.
Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo
viên.
Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học.
Kết quả cụ thể lớp 1B:
Kết quả – Giai đoạn

Số học sinh đọc chưa tốt,
đọc còn chậm
(%)

Số học sinh đọc đúng,
đọc tốt (%)

Đầu năm

83,3 %

16,7%

Cuối học kì I

6,7 %

93,3%

Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một
số biện pháp ở chương III vào việc rèn đọc cho học sinh lớp 1 đã nâng cao hiệu
quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú
say mê của học sinh.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 19 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1.
Tôi thấy rằng đây là phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của
học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ
động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá
trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của
học sinh lớp 1.

Để học sinh đọc ngày càng tiến bộ hay có kĩ năng đọc tốt giáo viên cần áp
dụng linh hoạt các biện pháp trong phần rèn đọc. Tuỳ từng bài giáo viên chọn
các biện pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất. Muốn vậy người giáo
viên phải làm được những công việc sau:
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh,
phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt hạn chế của học
sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền
thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần
lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong
giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ
động, ham thích học, đọc bài.
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường
xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giới
thiệu tranh ảnh, trò chơi để học sinh hào hứng học tập.
Lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh
nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ ở mọi
lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi.
Với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: Đọc đúng, nhìn kỹ, cố
gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm
nay và mai sau.

Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các
em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập.
Tuy nhiên, đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và
ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em
hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến
bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên
chuẩn.
II. Kiến nghị
Trên thực tế dạy học ở trường Tiểu học Hướng Phùng, tôi có một số đề
xuất sau:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 20 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
– Để giúp giáo viên thực hiện soạn giảng đạt kết quả cao thì các cấp cần
cung ứng các tài liệu tham khảo kịp thời, tranh ảnh về môn Tiếng Việt để giờ
dạy của giáo viên được hoàn thiện hơn.
– Tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu học tập, bố trí nhiều tiết dạy
mẫu…để giáo viên vận dụng một cách linh hoạt trong việc giảng dạy với từng
đối tượng học sinh.
– Các cấp quản lý giáo dục cần tạo cơ hội và động viên kịp thời khi giáo
viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dù là nhỏ nhất.
– Nhà trường, các tổ chức Đoàn – Đội cùng kết hợp với GVCN để vận
động học sinh đi học đảm bảo tỉ lệ chuyên cần để việc luyện đọc của các em
được diễn ra liên tục và thường xuyên.
Trên đây là đề xuất sáng kiến của tôi. Tôi rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các đồng nghiệp, của BGH nhà trường và của cấp trên.

Hướng Phùng, ngày 6 tháng 2 năm 2015

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thuý Phụng

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 21 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG TH HƯỚNG PHÙNG
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT HƯỚNG HÓA
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 22 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng Giảng viên cốt cán cấp tỉnh, thành phố môn Tiếng Việt
Lớp 1, Nhà xuất bản Hà Nội
2. Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt.Người biên soạn: Tiến sĩ Nguyễn
Thị Thanh – Giảng viên trường Đại học sư phạm Đà Nẵng.
3. Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt. Người biên soạn: Thạc sĩ Bùi
Thị Sanh – Giảng viên trường Đại học sư phạm Đà Nẵng.
4. Hỏi – đáp về dạy học Tiếng Việt 1.2.3.4 Của Nguyễn Minh Thuyết chủ biên.
Nhà xuất bản Giáo dục 2004-2005.
5. Chương trình Tiểu học. Nhà xuất bản giáo dục 2002
6. Sách giáo viên Tiếng Việt 1. Nhà xuất bản giáo dục 2002

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 23 –

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
– 24 –

IV. Phần học vần ……………………………………………………………………………………. 14V. Phần Tập đọc …………………………………………………………………………………….. 15VI. Phương pháp và hình thức tổ chức triển khai dạy học ………………………………………….. 16VII. Những phương tiện đi lại dạy học ………………………………………………………………. 18C. Kết luận và đề xuất kiến nghị ………………………………………………………………………….. 19I. Kết luận … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … …. 19II. Kiến nghị … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … .. 19A. PHẦN MỞ ĐẦUNgười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng PhùngMột số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1I. Lí do chọn đề tài : Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có trách nhiệm vô vùng quan trọng, hìnhthành 4 kỹ năng và kiến thức : Nghe – nói – đọc – viết cho học sinh. Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh sở hữu một công cụ mớiđể sử dụng trong học tập và trong tiếp xúc. Nếu kĩ năng viết được coi là phươngtiện lợi thế nhất trong mạng lưới hệ thống ngôn từ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọngkhông thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Cùng vớikĩ năng viết, kĩ năng đọc có trách nhiệm lớn lao là trao cho những em cái chìa khóa đểvận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết những em có điều kiện kèm theo nghelời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tìm hiểu thêm … Từ đó có điềukiện học tốt những môn học học khác. Ở lớp 1 những em học sinh khởi đầu làm quen với : Nghe, nói, đọc, viết. Và kĩnăng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở cácem nó sẽ giúp những em đọc tốt suốt cả cuộc sống, giúp những em tăng trưởng tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học kinh nghiệm, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được những lệnh những nhu yếu trong những mônhọc khác. Mặt khác, ở lớp 1, những em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôichảy thì khi lên những lớp trên những em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và những em sẽham học, tích cực trong học tập hơn nếu hiệu quả học tập tốt. Bắt đầu học đọc, học viết nên những em lớp 1 còn nhiều kinh ngạc và tiếp thukiến thức thật khó khăn vất vả, nhiều em chưa nắm vững những vần âm. Nếu không đượcquan tâm, rèn luyện thì chất lượng học tập của những em không cao. Theo tôi, đểnâng cao chất lượng học sinh phải giúp học sinh nắm được kỹ năng và kiến thức cơ bảnngay từ lớp 1. Mà hầu hết những em đọc chưa tốt đều do chưa thuộc kĩ âm, vần, chưađọc thông viết thạo vì vậy việc giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt hơn rất quantrọng. Đó là lí do tôi chọn ” Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 ” đểnghiên cứu và vận dụng vào trong thực tiễn lớp tôi chủ nhiệm, mong ước những em đềuđọc tốt có nền móng cơ bản để học những lớp trên. II. Mục đích nghiên cứu và điều tra của đề tàiNghiên cứu đề tài ‘ ’ Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 ’ ’ nhằmgóp phần nâng cao không chỉ có vậy kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 – Trường Tiểu họcHướng Phùng. III. Đối tượng nghiên cứuMột số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1. IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm : Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Hướng Phùng. V. Phương pháp nghiên cứuĐể thực thi đề tài này tôi đã sử dụng những chiêu thức sau : 1. Phương pháp quan sátNgười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-2-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 12. Phương pháp điều tra3. Phương pháp rèn luyện thực hành thực tế. 4. Phương pháp đàm thoại. 5. Phương pháp hoạt động giải trí theo nhóm nhỏ. 5. Phương pháp điều tra và nghiên cứu sản phẩmVI. Phạm vi nghiên cứuNhững giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 để nâng cao chất lượng dạyhọc. VII. Thời gian nghiên cứu và điều tra : Từ tháng 8 năm năm trước đến tháng 2 năm năm ngoái. B. PHẦN NỘI DUNGNgười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-3-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1C hương ICƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNGI. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu họca. Khái niệm đọc : Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có trách nhiệm hình thành năng lượng hoạtđộng ngôn từ cho học sinh. Năng lực hoạt động giải trí ngôn từ được bộc lộ bốndạng hoạt động giải trí, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc làmột dạng hoạt động giải trí ngôn từ, là quy trình chuyển dạng thức chữ viết sang lờinói có âm thanh và thông hiểu nó ( ứng với hình thức đọc thành tiếng ), là quátrình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành những đơn vị nghĩa không có âmthanh ( ứng với đọc thầm ). Đọc không chỉ là việc làm giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phátâm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “ đánh vần ” lên thành tiếng theo đúng nhưcác ký hiệu chữ viết mà còn là một quy trình nhận thức để có năng lực thônghiểu những gì được đọc. Trên trong thực tiễn, nhiều khi người ta đã không hiểu kháiniệm “ đọc ” một cách rất đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đếnviệc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không đượcchú ý đúng mức. b. Ý nghĩa của việc đọcNhững kinh nghiệm tay nghề của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tưtưởng, tình cảm của những thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớnđã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không hề tiếpthu nền văn minh của loài người, không hề sống một đời sống thông thường, cóhạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội văn minh. Biết đọc, con ngườiđã nhân năng lực đảm nhiệm lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu và khám phá, đánh giácuộc sống nhận thức những mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc conngười sẽ có năng lực khắc chế một phương tiện đi lại văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếpđược với quốc tế bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm củangười khác, đặc biệt quan trọng khi đọc những tác phẩm văn chương, con người không chỉđược thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơtốt đẹp, được khơi dậy năng lượng hành vi sức mạnh phát minh sáng tạo cũng như đượcbồi dưỡng tâm hồn không biết đọc con người sẽ không có điều kiện kèm theo hưởng thụsự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không hề hình thành được một nhân cáchtoàn diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quantrọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng những nguồn thông tin, đọc chính là học, họcnữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩato lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một yên cầu cơ bản tiên phong so với mỗi ngườiđi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ emchiếm lĩnh được một ngôn từ để dùng trong tiếp xúc và học tập. Nó là công cụNgười triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-4-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 để học tập những môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạođiều kiện để học sinh có năng lực tự học và ý thức học tập cả đời. Nó là mộtkhả năng không hề thiếu được của con người văn minh. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động ảnh hưởng tích cực tới trình độ ngôn ngữcũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồidưỡng ở những em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho những em biết tâm lý mộtcách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớncòn vì nó gồm có những trách nhiệm giáo dưỡng, giáo dục và tăng trưởng. 2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu họcNhững điều vừa nêu trên khẳng định chắc chắn sự thiết yếu của việc hình thành vàphát triển một cách có mạng lưới hệ thống và có kế hoạch năng lượng đọc cho học sinh. Tậpđọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có trách nhiệm đáp ứngyêu cầu này – hình thành và tăng trưởng năng lượng đọc cho học sinh. Phân môn học vần cũng triển khai trách nhiệm dạy đọc nhằm mục đích giúp học sinhsử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp vàchưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa ( đọc thầm ). Như vậy, tập đọcvới tư cách là một phân môn Tiếng Việt liên tục những thành tựu dạy học màhọc cần đạt được, nâng lên một mức không thiếu hoàn hảo hơn. Tập đọc là một phân môn thực hành thực tế trách nhiệm quan trọng nhất của nó làhình thành năng lượng đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năngcũng là bốn nhu yếu về chất lượng của “ đọc ” : đọc đúng, đọc nhanh ( đọc lưu loát, trôi chảy ), đọc có ý thức ( thông hiểu được nội dung những điều mình đọc haycòn gọi là đọc hiểu ) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong 2 hình thức đọc : đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời vàhỗ trợ lẫn nhau. Sự triển khai xong một trong những kĩ năng này sẽ có ảnh hưởng tác động tíchcực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng nhưcho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mìnhđang đọc thì không hề đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói đượcrạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng haychính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không hề xemnhẹ yếu tố nào. Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thànhthói quen thao tác với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông quaviệc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng năng lực đọc là có lợiích cho những em trong cả cuộc sống, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong nhữngcon đường đặc biệt quan trọng để tạo cho mình một đời sống trí tuệ khá đầy đủ và tăng trưởng. Ngoài ra việc đọc còn có những trách nhiệm khác đó là làm giàu kiến thứcvề ngôn từ, đời sống và kỹ năng và kiến thức văn hoá cho học sinh, tăng trưởng ngôn từ vàtư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu nghệ thuật và thẩm mỹ cho những em. Người thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-5-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC1. Cơ sở tâm ý, sinh lý của việc dạy đọcĐể tổ chức triển khai dạy đọc cho học sinh, tất cả chúng ta cần hiểu rõ về quy trình đọc, nắm thực chất của kĩ năng đọc. Đặc điểm tâm ý sinh lý của học sinh khi đọc haycơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học. Như trên đã nói, đọc là một hoạt động giải trí trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việctiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào những hoạt động giải trí của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào nghiên cứu và phân tích đặc thù của quy trình này. – Đọc được xem như thể một hoạt động giải trí có hai mặt quan hệ mật thiết vớinhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quy trình vậnđộng của mắt, sử dụng bộ mã chữ – âm để phát ra một cách trung thành với chủ nhưngdòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự hoạt động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ – nghĩa tức là mối liên hệ giữa những con chữ và ýtưởng, những khái niệm tiềm ẩn bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dungnhững gì được đọc. – Đọc gồm có những yếu tố như tiếp đón bằng mắt hoạt động giải trí của cáccơ quan phát âm, những cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càngngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động ảnh hưởng đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ ở đầu cuối của sự tăng trưởng kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợpgiữa những mặt riêng không liên quan gì đến nhau này của quy trình đọc, đó là điểm nghiên cứu và phân tích biết ngườimới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có năng lực tổng hợp những mặt trên baonhiêu thì việc đọc càng hoàn thành xong, càng đúng mực, càng biểu cảm bấy nhiêu. – Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ ” đọc ” được sử dụng trong nhiềunghĩa : Theo nghĩa hẹp, việc hình thành kĩ năng đọc trùng với nắm kĩ thuật đọc ( tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh ), theo nghĩa rộng, đọc được hiểu là kĩ thuật đọc của những từ riêng không liên quan gì đến nhau mà cả câu, cả bài ). Ý nghĩahai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong những tài liệu tâm lý học và phươngpháp dạy học. Từ đây tất cả chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai – đọc được xemnhư là một hoạt động giải trí lời nói trong đó có những thành tố : 1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm những từtheo từng vần âm ( đánh vần ) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độnắm kĩ thuật đọc. 3. Thông hiểu những gì được đọc ( từ, cụm từ, câu, bài ) kĩ năng đọc là mộtkĩ năng phức tạp, yên cầu một quy trình luyện lâu bền hơn. Chia việc hình thành kĩnăng này ra làm 3 tiến trình : nghiên cứu và phân tích tổng hợp ( còn gọi là quá trình phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành vi ) và tiến trình tự động hoá. Giaiđoạn dạy học vần là sự nghiên cứu và phân tích những vần âm và đọc từng tiếng theo những âm. Giaiđoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ toàn vẹn, trong đó có sự tiếp đón từ bằng thịgiác và phát âm phần đông trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ýNgười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-6-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 nghĩa của ” từ ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thựchiện trong sự đoán những nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh khởi đầu đọc tổnghợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc ngày càng tự động hoá, nghĩa làngười đọc ngày càng ít chăm sóc đến chính quy trình đọc mà quan tâm nhiều đếnviệc sở hữu văn hoá ( bài khoá ), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, cácphương tiện diễn đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đếnnhững mối quan hệ pháp luật lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng đọc và hìnhthành kĩ năng thao tác với văn bản. Nghĩa là yên cầu giáo viên tổ chức triển khai giờ họcđọc sao cho việc nghiên cứu và phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ýthức bài đọc. Việc đọc như vậy nhằm mục đích vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biếtđọc khi nó đọc mà hiểu trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếutrẻ không hiểu được những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứngthú học tập và không có năng lực thành công xuất sắc. Do đó hiểu những gì được đọc sẽtạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc. Để có giờ học vần hiệu quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểmtâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc thù nhu yếu, thực chất kĩ năng cơchế mục tiêu cần đạt được của tiết dạy học vần. Trên cơ sở đó sử dụng phươngpháp cho tương thích. 2. Cơ sở ngôn từ và văn học của việc dạy đọcPhương pháp dạy học vần phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó tương quan mật thiết với 1 số ít yếu tố của ngôn ngữ học như yếu tố chínhâm, chính tả, chữ viết, ngôn từ ( thuộc ngữ âm học ), yếu tố nghĩa của từ, củacâu, đoạn, bài ( thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học ), yếu tố dấu câu, những kiểucâu … Phương pháp dạy học học vần phải dựa trên những hiệu quả nghiên cứucủa ngôn ngữ học, việt ngữ học về những yếu tố nói trên để kiến thiết xây dựng, xác lậpnội dung và chiêu thức dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không hề tách rờinhững cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việcdạy học sẽ mang tính tuỳ tiện và không bảo vệ hiệu suất cao dạy học. a. Vấn đề chính âm trong tiếng ViệtChính âm là những chuẩn mực phát âm của ngôn từ có giá trị và hiệu quảvề mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là yếu tố thời sự, cónhiều quan điểm khác nhau. Nó tương quan đến nhiều yếu tố khác nhau như chuẩnhoá ngôn từ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục tiêu của việc xây dựngchính âm. b. Vấn đề ngôn từ của Tiếng ViệtTheo nghĩa hẹp, ngôn từ là sự biến hóa giọng nói, giọng đọc, là sự lêncao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phầncủa ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạothành lời nói. Mỗi ngôn từ có một ngôn từ riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như những ngônngữ có thanh điệu khác, hầu hết được biểu lộ ở sự lên giọng và xuống giọngNgười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-7-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 ( cao độ ), sự nhấn giọng ( cường độ ), sự ngừng giọng ( trường độ ) và sự chuyểngiọng ( phối hợp cả trường độ và cường độ ). Ngữ điệu là một hiện tượng kỳ lạ phức tạp hoàn toàn có thể tách ra thành những yếu tố cơbản có quan hệ với nhau : chỗ nghỉ ( ngưng giọng hay ngắt giọng ) trọng âm, âmđiệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngôn từ là dạy học sinh biết làm chủnhững yếu tố này. 3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 a. Đặc điểm chung của địa phươngHướng Phùng là một trong những xã khó khăn vất vả của vùng Bắc Hướng Hóa, đa phần học sinh là con trẻ đồng bào Vân Kiều, điều kiện kèm theo kinh tế tài chính và đi lại còn gặpnhiều khó khăn vất vả. Bên cạnh đó, cha mẹ chưa có đủ điều kiện kèm theo và chưa có sựquan tâm đến việc học của con em của mình. Nhưng nhờ sự chăm sóc của chính quyền sở tại địaphương, sự chỉ huy sát sao và kịp thời của Chuyên môn nhà trường, tổ khối, đãvận động, kêu gọi để những em đến lớp đều đặn hơn, đặc biệt quan trọng là những em họcsinh còn đọc chưa tốt, giúp những em có thời cơ rèn luyện việc đọc của mình nhiềuhơn. b. Đặc điểm chung của lớp 1B – Tổng số lớp là 30 em, trong đó có 12 nữ. – Tất cả những em là người Vân Kiều, thiên nhiên và môi trường tiếp xúc và sử dụng tiếngViệt còn nhiều hạn chế. – Số học sinh đã qua mần nin thiếu nhi ít. – Lớp học đông, đã biết vần âm còn rất ít. – Học sinh chưa quen với môi trường học tập ở trường Tiểu học, còn rụtrè. – Cơ sở vật chất còn thiếu. Người triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-8-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1C hương IITHỰC TRẠNG DẠY HỌCI. Tình hình – Kết quả khảo sát điều traVào đầu năm học tôi đã triển khai khảo sát nhỏ trong lớp 1B Trường Tiểuhọc Hướng Phùng với nội dung sau : – Kiểm tra sự tăng trưởng về sức khỏe thể chất của những em. – Nhận xét về sự chăm sóc của mái ấm gia đình so với việc học của con trẻ. – Tìm hiểu số học sinh đi học mần nin thiếu nhi và số học sinh không đi học mầmnon hoặc đi học không đều, tìm hiểu và khám phá nguyên do học sinh không đi học mần nin thiếu nhi. – Kiểm tra sự sự chớp lấy, nhận diện chữ cái đã học trong trường mầmnon. – Kiểm tra học sinh đã biết hoặc chưa biết cầm bút. Kết quả thu được như sau : – Một số em yếu về sức khỏe thể chất, nhỏ bé hơn so với những bạn thông thường kèmtheo tăng trưởng chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. – Phụ huynh trong lớp là người dân tộc thiểu số, hầu hết không biết chữchưa chăm sóc đến việc học tập của con trẻ mình, chưa tạo điều kiện kèm theo tốt để kèmcặp con em của mình mình học bài, đọc bài ở nhà. – Tổng số học sinh trong lớp là 30 em : Học sinh không đi học mần nin thiếu nhi : 10H ọc sinh đi học không đều : 13 emHọc sinh đi học đều : 7 em. – Kết quả khảo sát nhận diện vần âm : + Tổng số : 30 em + Không biết vần âm : 18 em + Biết từ 3 – 5 chữ : 07 em + Nhận biết những chữ : 5 emNhư vậy tỉ lệ học sinh nhận diện chưa chắc như đinh, đúng chuẩn bảng chữ cáiquá thấp nên dẫn đến hiệu quả học tập của học sinh sẽ không cao. Một trongnhững lí do dễ thấy là vì những em chưa được sự chăm sóc của mái ấm gia đình, những emchưa siêng năng học. Vì vậy, tất cả chúng ta phải biết được đặc thù tình hình của từngđối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Biết lựa chọn phươngpháp, hình thức tổ chức triển khai tiết học sao cho những em luôn cảm xúc tự do thíchthú, thích được tham gia học một cách tự nguyện không gò ép. Giáo viên phảigần gũi, yêu thương, động viên kịp thời để học sinh thích học. Nhận thức đượcNgười triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng-9-Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 điều này và thấy rõ được những khó khăn vất vả cơ bản tôi đã thực thi một số ít biệnpháp. Rèn kĩ năng đọc cho những em học sinh lớp 1 để những em có điều kiện kèm theo học tốtcùng những bạn trong lớp. II. Những giải pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc : Hiện nay ở Tiểu học, về yếu tố rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụngphương pháp dạy học cụ thể là : Phương pháp làm mẫu, giải pháp luyện đọctheo mẫu, giải pháp rèn luyện củng cố, chiêu thức hỏi đáp. Sau một thời hạn thực thi tìm hiểu và khám phá tìm hiểu tình hình, tôi rút ra một sốkết luận sau : * Thời lượng rèn đọc có vị trí quan trọng ở Tiểu học. * Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc rèn đọc và trách nhiệm chínhcủa dạy đọc. * Trong giờ học môn Tiếng Việt giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa đểcác em tự phát hiện ra cách đọc. * Trong giờ học nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý quan tâm đếnhọc sinh đọc chưa tốt vì đối tượng người dùng này thường đọc chậm, làm mất thời hạn, làmgiảm quá trình của tiết dạy. Người thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 10 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1C hương IIIĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤCTừ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và tình hình của việcdạy – học đọc lúc bấy giờ thì chưa cung ứng được vừa đủ nhu yếu dạy đọc ở Tiểuhọc. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ởthực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra 1 số ít giải pháp rèn đọc để nâng cao kĩ năngđọc cho học sinh lớp 1. I. Biện pháp ảnh hưởng tác động giáo dục – Từ những tình hình trên tôi đã triển khai họp cha mẹ học sinh đềnghị nhắc nhở con em của mình đi học vừa đủ, nhu yếu thống nhất trang bị đủ sách vở, đồdùng thiết yếu ship hàng cho môn học. – Yêu cầu, đề xuất cha mẹ nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làmbài ở nhà của học sinh. – Đồng thời mượn vật dụng học tập, sách cho học sinh có thực trạng khókhăn. – Xây dựng đôi bạn cùng tiến. – Xây dựng nề nếp kiểm tra bài 15 phút đầu giờ của từng bàn sau đó tặngcờ thi đua cho những nhóm. – Cùng với tổ trình độ tranh luận về sáng tạo độc đáo những giải pháp rèn đọc chohọc sinh của mình. – Chuẩn bị bài dạy thật kĩ, có kỹ năng và kiến thức tương thích cho những đối tượng người tiêu dùng họcsinh, lựa chọn những chiêu thức, hình thức dạy học tương thích tạo hứng thú chohọc sinh. – Trong quy trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh động cácphương pháp khác nhau để tương thích với đặc trưng của phân môn và tương thích vớinội dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước hết giáo viênphải sử dụng chiêu thức làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinhnghe, nhu yếu giọng đọc của giáo viên phải chuẩn, diễn cảm bộc lộ đúng nộidung, ý nghĩa của bài học kinh nghiệm để học sinh bắt trước đọc theo. Sau đó giáo viên phảikết hợp chiêu thức luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc đúng chuẩn cácphụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh. – Ngoài ra để phần rèn đọc đạt tác dụng tốt thì cần phải có những yếu tố khácnhư cơ sở vật chất vừa đủ, vật dụng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn tíchcực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lượng. Nếu phối hợp những yếu tốtrên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó bộc lộ được nội dung củabài học, thấy được cái hay, cái đẹp của đời sống qua từng bài học kinh nghiệm. II. Phần học những nét chữ cơ bản : Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học những nét chữ cơbản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết những nét chữ đó. Để choNgười triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 11 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu trúc những nét cótên gọi và cấu trúc gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận ra vàso sánh. Dựa vào những nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được những chữcái, kể cả những vần âm có hình dáng cấu trúc giống nhau. Ví dụ : Các nét chữ cơ bản và tên gọi. Nhóm 1N ét sổ thẳngNét ngangNét xiên phải ( giống dấu thanhhuyền ) Nét xiên trái ( giống dấu thanh sắc ) Nhóm 2N ét móc xuôi ( chữ l ) Nét móc ngược ( chữ n, m ) Nét móc hai đầu ( chữ h, p, ph ) Nhóm 3N ét cong hở phải ( chữ c ) Nét cong hở trái ( chữ x ) Nét cong kín ( chữ o, ô, ơ ) Nhóm 4N ét khuyết trên ( chữ h, l, b ) Nét khuyết dưới ( chữ g, y ) Nét thắt ( chữ b, v, r ) Nét khuyết, có nét thắt ở giữa ( chữ k ) Tôi sẵn sàng chuẩn bị những đoạn dây dù đủ sắc tố làm hình nét chữ để giớithiệu và khuyến khích học sinh cùng làm theo, giúp những em dễ thuộc những nét hơnvì đã được thưởng thức. Cho học sinh đọc tên gọi những nét tiếp nối đuôi nhau nhau, đọc xuôiđọc ngược nhiều lần để những em nhớ. Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắcsâu kiến thức và kỹ năng của những em bằng cách tổ chức triển khai game show : ” Đoán nét chữ ” trong hoạtđộng củng cố. Dựa vào những nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được những chữcái và lôi cuốn những em tập trung chuyên sâu hơn. Ví dụ : Đố con, chữ a gồm có nét gì ? Chữ a : nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín ? Chữ o ( ô, ơ ). Tôi đãtuyên dương những em vấn đáp tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to. Vì những em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình thức khi vấn đáp đúng, nhấtlà những em đọc chưa tốt hoặc đọc chậm đó là sự khuyến khích rất lớn với những em. Đâylà bài học kinh nghiệm tiên phong trong phần Học vần nên cần tạo cho những em tâm thế học tậpthoải mái, thân thiện, gây sự hứng thú. Người thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 12 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1III. Phần học âm : Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu trúc những nét chữ cơ bảnmột cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm ( vần âm ). Giai đoạn học chữcái là tiến trình vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng vần âm thì mớighép được những chữ vào với nhau để thành tiếng, những tiếng đơn ghép lại với nhautạo thành từ và thành câu. Giai đoạn này tôi dạy cho những em nghiên cứu và phân tích từng nét chữ cơ bản trongtừng vần âm và nếu vần âm đó có cùng một tên gọi tuy nhiên có nhiều kiểu viết khácnhau hay gặp trong sách báo như : chữ a, chữ g thì tôi nghiên cứu và phân tích cho học sinhhiểu và nhận ra đó là : chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo cácem dễ hiểu và không bị lúng túng. Ví dụ : Âm : a – a, g – g. + Âm a gồm hai nét : nét cong khép kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bênphải ; chữ a cũng gồm nét cong khép kín và nét móc ngược. + Âm g gồm : nét cong khép kín và nét móc dưới. Từ việc học kỹ cấu trúc âm tạo bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúphọc sinh phân biệt được sự khác nhau cả về cấu trúc và tên gọi của bốn âm sau : d ; b ; p ; q. Ví dụ : + Âm d gồm hai nét : nét cong khép kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng nằm bênphải. Đọc là : “ dờ ”. + Âm b gồm hai nét : nét cong khép kín nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ởbên trái. Đọc là : “ bờ ”. Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lạivới nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp những âm có âm h đứng sau thành một nhóm đểnói lên được sự giống nhau và khác nhau của những âm đó. Ví dụ : + Các âm ghép : c + h = ch, n + h = nh, t + h = th, k + h = kh, g + h = gh, ng + h = ngh. + Còn lại những âm : gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu trúc và cách ghép chữ. + Phân từng cặp : ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh, nh – d để phát âm chính xácvà viết chính tả phân biệt. Trong khi luyện phát âm tôi chú ý quan tâm luyện phát âm đúng cho những em ởHướng Phùng thường phát âm sai s với x, những dấu thanh. Ví dụ : Âm s thì kỉthuật phát âm là uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không cótiếng thanh – tôi làm mẫu nhiều lần cho những em, âm x thì khi phát âm đầu lưỡitạo ra với môi răng một khe hẹp, hơi thoát ra xát nhẹ, không có tiếng thanh. Vớiphương pháp như vậy với những âm mà những em hay nhầm lẫn. Người triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 13 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1T rong những tiết học, những bài học kinh nghiệm tôi luôn biến hóa hình thức kiểm tra cácâm, vần âm của học sinh trải qua game show, những em tự đố nhau khi trò chuyệnvà lúc đó tôi cũng là một thành viên tích cực trong hoạt động giải trí này ( Đặc biệt làcác tiết ôn tập ). Từ đó, củng cố thêm kỹ năng và kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránhsự đơn điệu của những bài ôn tập trong sách. Một hình thức mà tôi cảm thấy rấttâm đắc đó là viết phiếu, hoàn toàn có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng cóthể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tínhgiáo dục và rất thân thiện với những em. Ví dụ : Trường, lớp, bạn, chăm học, ngoan ngoãn, học giỏi, bút chì, thước kẻ, bàn và ghế, vở ô li, thật sạch, vệ sinh, cha mẹ, ông bà, anh chị, em bé, cô giáo, thầy giáo … … Lớp học của Lê rất vui. Ngày ngày, những bạn rất chăm học. Cô giáo Lê hài lònglắm. Cả trong những khi kiểm tra bài hoàn toàn có thể là bảng con cũng có khi là phiếucho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vầnmới học xong, từ đó không lấy trong sách ra. Ví dụ : Muốn kiểm tra vần eo, ao thì tôi viết bảng con có những từ không có trongsách như : cái kẹo, theo dõi, chèo bẻo, kéo co, chào hỏi, cao to, bà lão, …. tươngtự như vậy với những bài khác. Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kể một từ mới nào những em cũngđọc được. Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi cũng không đọc cho họcsinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài. Thông qua phần kiến thiết xây dựng tiếng, từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghĩa của những từ mà những em tìmđược của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó trào lưu tìm tiếng, từ mới họcsinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi sục nhiệt tình. Những đọan văn haybài văn mang đặc thù : – Cung cấp kỹ năng và kiến thức về âm, vần, tiếng. Ví dụ : giỏ đỏ có cà. – Cung cấp vốn từ, câu đa dạng chủng loại. Ví dụ : Người thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 14 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1D ì Ly là y tá ở tổ y tế. Bà Tư bế bé Lệ đi từ từ. Bố Tú đi mô tô đỏ. Mẹ Na mổ cá mè. * ng, ngh, nh, th. Má Nga là ca sĩ. Ba Tú đi xe mô tô về nhà cô Thu. Bé Nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ. Để rèn kĩ năng sống cho học sinh, trải qua hoạt động giải trí luyện nói tôi vậndụng những vần, tiếng, từ đã học để tạo thành những câu văn, đoạn văn có nội dungmang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm những đợt thiđua như kỷ niệm những ngày lễ hội : 8/3, 26/3, 15/5, 19/5, 20 / 11, 22/12 … để xây dựngbài cho học sinh đọc và nói. IV. Phần học vần : Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong những đoạnvăn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận ra và đọc chữ hoa sau dấuchấm, những danh từ riêng tên gọi. – Bài : Ôn những vần có âm m cuối. am ăm âm om ôm ơm em êm im um. + Bà Tâm đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thêm đến thăm bàvà đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn cha mẹ Thêm. Bà còn khen em lớn quá. + Hôm qua nghỉ học, mẹ cho Thêm đi xem thú. Thêm nhìn rõ chú nhím nằm thulu bên mẹ nó. + Hôm nay trời rất rét, mẹ nhắc Nga đi học phải mặc thêm áo ấm. – Vì tiếp tục phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đãchia chất lượng của lớp ra làm 4 nhóm : + Nhóm đọc tốt + Nhóm đọc tương đối nhưng vận tốc còn chậm + Nhóm đọc được 1 số ít chữ, vần + Nhóm chưa đọc được. – Và phân công : + Nhóm đọc tốt kèm nhóm chưa đọc được. + Nhóm đọc tương đối nhưng vận tốc còn chậm – kèm nhóm đọc được một sốchữ, vần. Người thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 15 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 – Trong kế hoạch bài dạy tôi chuẩn bị sẵn sàng những kỹ năng và kiến thức tương thích cho cả 4 đốitượng. Hàng ngày tôi giao trách nhiệm đơn cử cho nhóm học sinh đọc tốt. Những ngàyđầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh đọc tốt, biết được những em đã đọc trôi chảy, lưu loát rồi thì khi nhận được trách nhiệm là những em sẽ kiểm tra bạn một cáchchính xác. Từ những điều học sinh đọc tốt tiếp thu được những em sẽ in sâu vàtruyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, nhóm học sinh đọc được một số ít chữ, vần vànhóm chưa đọc được dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy : ” Học thầy không tày học bạn “. Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn từ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏsong trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cũngcố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong tương đốiđồng đều. Song không phải phó thác trọn vẹn cho học sinh đọc tốt mà tôi vẫnthường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh đọc được 1 số ít chữ, vần và chưađọc được. nhằm mục đích củng cố cho những em về kiến thức và kỹ năng một cách vững vàng hơn. V. Phần tập đọc : Đây là tiến trình khó khăn vất vả so với học sinh. Nhất là đối tượng người dùng học sinhđọc chưa tốt. Học sinh đã vững phần vần âm, nắm vững phần vần chỉ nhìn vàobài là những em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì năng lực nhận biếttốt. Còn học sinh đọc chưa tốt những em phân biệt còn chậm, chưa nhìn chính xácvần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câurất khó khăn vất vả. Vì thế so với những học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cầnhết sức kiên trì, giành nhiều thời cơ tập đọc cho những em giúp những em đọc bài từdễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho những emđọc lại dẫn đến thực trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viênnên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọctrơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng sau đó lại đọctrơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ. VD : Dạy bài tập đọc Trường Em ( sách giáo khoa Ttiếng Việt 1 ) * Học sinh chưa đọc được tiếng ’ ’ trường ’ ’, giáo viên nên cho những emđánh vần tiếng ‘ ’ trường ’ ’ bằng cách nghiên cứu và phân tích như sau : GV : Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì ? Có dấu thanh gì ? HS : Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền. GV : Vậy đánh vần tiếng trường thế nào ? HS : trờ – ương – trương – huyền – trường. GV : Đọc trơn tiếng này thế nào ? Hs : Trường. Rồi cho học sinh đọc nối tiếp : Trường em. Người thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 16 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 * Học sinh không đọc được tiếng trườngGV nên cho học sinh ôn lại cấu trúc vần ương trong tiếng trường. GV : Vần ương gồm có mấy âm ? HS : Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng. GV : Vị trí những âm trong vần thế nào ? HS : Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau. GV : Đánh vần và đọc trơn vần ương. HS : ươ – ng – ương, ươngGV : Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Tađánh vần, đọc trơn tiếng thế nào ? HS : Trờ – ương – trương – huyền – trường, trườngVà sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lầnđể khắc sâu vào trí nhớ học sinh. VI. Phương pháp và hình thức tổ chức triển khai dạy họcCó rất nhiều giải pháp và hình thức để vận dụng cho một tiết dạy nhằmđạt được một tác dụng tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một chiêu thức nàođược coi là vạn năng, giáo viên nên sử dụng linh động và hàng loạt nhiềuphương pháp để giúp học sinh có kĩ năng đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là mộtsố chiêu thức thường được vận dụng trong giờ học : * Phương pháp trực quanPhương pháp này yên cầu học sinh được quan sát vật thật, tranh vẽ tựnhiên hay việc làm mẫu của giáo viên như cho những em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu. Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l, giáo viên phải phát âm mẫu và cho họcsinh quan sát khuôn miêng để những em ‘ ’ bắt chước ‘ ’ phát âm mới đúng được. * Phương pháp đàm thoại, vấn đápGiáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh vấn đáp nhằm mục đích phát hiện sự hiểubiết của những em hoặc để gợi mở giúp những em phát hiện cách đọc. VD : – Chữ này là chữ gì ? ( chữ a, o, b, c, d …. ) – Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào ? ( chờ – anhchanh ). Khi sử dụng giải pháp này, giáo viên nên dùng ngôn từ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi những em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắthọc sinh từng bước một để dạy những em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trongmỗi ngày. * Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinhNgười triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 17 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1T rong tiết dạy tôi thường quan tâm đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọcchậm, đọc chưa tốt để gọi những em tiếp tục đọc bài. Đối với học sinh có kĩnăng đọc tốt tôi thường khuyến khích, khen ngợi để những em phấn khởi hơn. Còn đốivới học sinh kĩ năng đọc chưa tốt tôi nhẹ nhàng an ủi động viên : “ Cố lên, rồicác em sẽ đọc tốt như những bạn nếu những em nỗ lực đọc bài nhều ở lớp cũng nhưở nhà. ” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi đến tận chỗ ngồicủa học sinh đọc chưa tốt để hướng dẫn đọc từng tiếng, từ học sinh chưa đọcđược. Tôi giành nhiều thời hạn cho đối tượng người tiêu dùng này hơn. Cùng đọc bài với những emtrong giờ ra chơi nhưng vẫn để cho những em có thời hạn thư giãn giải trí, nghỉ ngơi. Khicác em có biểu lộ tân tiến tôi thường khen thưởng những em bằng những phầnquà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv … để những em thú vị vàcố gắng hơn. * Phương pháp học nhómNgay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tôi bố trícho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt, em đọc tốt ngồi gần em đọcchưa tốt để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh đọc chưa tốt được ngồi ởdãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học khi nào tôi cũng gọicác em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để học sinh đọc chưa tốt đọc theo học sinh đọc tốt và học sinhđọc chưa tốt cũng được rèn luyện nhiều hơn. * Phương pháp tổ chức triển khai những trò chơiTrong giờ học vần, tôi hay lồng ghép những game show nhỏ để cả lớp cùngtham gia. VD Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúngGiáo viên ghi 1 số ít từ vào những mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạnnào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tục sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thườnghay chọn những học sinh đọc chưa tốt để đọc nhiều hơn nhằm mục đích giúp những em cố gắngđọc để thi đua và tạo cho những em năng lực đọc nhanh, đọc đúng. Hay game show Chỉ nhanh – Chỉ đúngTôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em ( là học sinh đọc tốt ) đọc chohai học sinh đọc chưa tốt chỉ vào âm, vần, tiếng, từ do bạn đọc. Trò chơi này họcsinh rất thích và lớp học cũng sôi sục. * Phương pháp nhận xét nêu gương. Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinhđồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh đọc chưa tốt đểgiúp những em cố gắng nỗ lực hơn cho kịp bằng những bạn. Tôi cho những em nhận xét những bạnđọc tốt trong lớp. VD : Bạn Điểm, bạn Thu, bạn Hằng, bạn Nguyệt, … đọc tốt, học tốt vì cácbạn ấy rất chịu khó đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp những bạn cũng rất cốgắng đọc bài và rèn luyện thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luônNgười triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 18 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Cácem cũng sẽ đọc tốt như những bạn ấy nếu có cố gắng nỗ lực đọc nhiều, như những bạn : Đọcchưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên vàcứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc đượcngay mới thôi. VII. Những phương tiện đi lại dạy học : Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham họcgiáo viên cần sử dụng linh động và tương thích những phương tiện đi lại tương hỗ tiết dạy nhưsau : Sử dụng tranh vẽ trong sách giáo khoa là đa phần. Tận dụng những vật thật, tranh vẽ có sẵn trong thực tiễn để những em quansát tìm hiểu và khám phá. Sử dụng tiếp tục bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáoviên. Sưu tầm thêm một số ít tranh vẽ, vật mẫu có liên qua đến bài dạy. Ứng dụng những hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học. Kết quả đơn cử lớp 1B : Kết quả – Giai đoạnSố học sinh đọc chưa tốt, đọc còn chậm ( % ) Số học sinh đọc đúng, đọc tốt ( % ) Đầu năm83, 3 % 16,7 % Cuối học kì I6, 7 % 93,3 % Căn cứ vào những tác dụng thu được ở trên tôi nhận thấy việc vận dụng mộtsố giải pháp ở chương III vào việc rèn đọc cho học sinh lớp 1 đã nâng cao hiệuquả của giờ dạy, phát huy được tính dữ thế chủ động phát minh sáng tạo và tạo được sự hứng thúsay mê của học sinh. Người triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 19 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊI. Kết luậnQua quy trình điều tra và nghiên cứu thực nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1. Tôi thấy rằng đây là giải pháp và hình thức nhằm mục đích tích cực hoá hoạt động giải trí củahọc sinh vì khi triển khai giải pháp và hình thức này học sinh trọn vẹn chủđộng tự giác phát minh sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục tiêu của quátrình dạy học lúc bấy giờ và trọn vẹn tương thích với đặc thù tăng trưởng sinh lý củahọc sinh lớp 1. Để học sinh đọc ngày càng văn minh hay có kĩ năng đọc tốt giáo viên cần ápdụng linh động những giải pháp trong phần rèn đọc. Tuỳ từng bài giáo viên chọncác giải pháp tương thích để làm thế nào đạt tác dụng cao nhất. Muốn vậy người giáoviên phải làm được những việc làm sau : Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt hạn chế của họcsinh để tu dưỡng, rèn luyện. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác lập khối lượng kỹ năng và kiến thức cần truyềnthụ cho học sinh trải qua mục tiêu, nhu yếu của bài dạy. Khi giảng dạy cầnlựa chọn nhiều chiêu thức tương thích, vận dụng việc thay đổi chiêu thức tronggiảng dạy đó là lấy học sinh làm TT, phải khơi gợi cho học sinh tính chủđộng, ham thích học, đọc bài. Việc sẵn sàng chuẩn bị vật dụng dạy học cũng được coi trọng số 1 và nên thườngxuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giớithiệu tranh vẽ, game show để học sinh hào hứng học tập. Lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững ý thức tránhnhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với những bạn nhỏ ở mọilúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi những em đọc sai lỗi. Với học sinh lớp 1 cần tập cho những em thói quen tốt : Đọc đúng, nhìn kỹ, cốgắng, nhẫn nại, chịu khó vv … để tập cho những em nề nếp tốt trong học tập ở hômnay và tương lai. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho cácem sự an toàn và đáng tin cậy, yêu quý cô giáo, ý thức vui tươi, hồn nhiên để học tập. Tuy nhiên, đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại vàý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp thân mật những emhàng ngày. Chúng ta luôn ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiếnbộ, sau một năm học những em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trênchuẩn. II. Kiến nghịTrên thực tiễn dạy học ở trường Tiểu học Hướng Phùng, tôi có một số ít đềxuất sau : Người triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 20 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 – Để giúp giáo viên thực thi soạn giảng đạt tác dụng cao thì những cấp cầncung ứng những tài liệu tìm hiểu thêm kịp thời, tranh vẽ về môn Tiếng Việt để giờdạy của giáo viên được hoàn thành xong hơn. – Tạo điều kiện kèm theo cho giáo viên được giao lưu học tập, sắp xếp nhiều tiết dạymẫu … để giáo viên vận dụng một cách linh động trong việc giảng dạy với từngđối tượng học sinh. – Các cấp quản trị giáo dục cần tạo thời cơ và động viên kịp thời khi giáoviên triển khai thay đổi chiêu thức dạy học dù là nhỏ nhất. – Nhà trường, những tổ chức triển khai Đoàn – Đội cùng tích hợp với GVCN để vậnđộng học sinh đi học bảo vệ tỉ lệ chịu khó để việc luyện đọc của những emđược diễn ra liên tục và liên tục. Trên đây là đề xuất kiến nghị sáng tạo độc đáo của tôi. Tôi rất mong được sự góp phần ýkiến của những đồng nghiệp, của BGH nhà trường và của cấp trên. Hướng Phùng, ngày 6 tháng 2 năm 2015X ÁC NHẬN CỦA THỦTRƯỞNG ĐƠN VỊTôi xin cam kết đây là SKKN của tôi viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viếtNguyễn Thị Thuý PhụngNgười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 21 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG TH HƯỚNG PHÙNG …………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT HƯỚNG HÓA ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Người triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 22 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1T ÀI LIỆU THAM KHẢO1. Tài liệu tu dưỡng Giảng viên cốt cán cấp tỉnh, thành phố môn Tiếng ViệtLớp 1, Nhà xuất bản Hà Nội2. Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt. Người biên soạn : Tiến sĩ NguyễnThị Thanh – Giảng viên trường Đại học sư phạm TP. Đà Nẵng. 3. Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt. Người biên soạn : Thạc sĩ BùiThị Sanh – Giảng viên trường Đại học sư phạm TP. Đà Nẵng. 4. Hỏi – đáp về dạy học Tiếng Việt 1.2.3. 4 Của Nguyễn Minh Thuyết chủ biên. Nhà xuất bản Giáo dục 2004 – 2005.5. Chương trình Tiểu học. Nhà xuất bản giáo dục 20026. Sách giáo viên Tiếng Việt 1. Nhà xuất bản giáo dục 2002N gười thực thi : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 23 – Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1N gười triển khai : Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng – 24 –