Kim Cương (nghệ sĩ) – Wikipedia tiếng Việt

NSND Kim Cương (sinh ngày 25 tháng 1 năm 1937) là một nữ diễn viên kịch nói, diễn viên điện ảnh, soạn giả, biên kịch nổi tiếng của Việt Nam từ trước 1975. Cô nổi tiếng từ những năm 1960 trong lĩnh vực kịch nói. Tác phẩm kinh điển làm nên tên tuổi của cô đó là “Lá sầu riêng” do cô đóng vai chính kiêm soạn giả.

Nghệ sĩ Nhân dân Kim Cương là một nghệ sĩ nổi tiếng người Việt Nam. Bà được mệnh danh là “Kỳ nữ” trong giới sân khấu Việt Nam và được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam chính thức xác nhận kỷ lục là “Nghệ sĩ viết nhiều kịch bản kịch nói nhất Việt Nam”. Bà hiện nay là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VII, Ủy viên Hội đồng Tư vấn về lĩnh vực Văn hóa – Xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận nhiệm kỳ 2009 – 2014; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc TP. Hồ Chí Minh khóa IX, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Văn hóa và Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh.[1].

Nghệ sĩ Kim Cương có tên họ đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Cương. Theo soạn giả Nguyễn Phương, bà sinh ngày 25 tháng 1 năm 1937, tại Cửa Thượng Tứ, thành phố Huế.[2] Thân phụ của bà là ông Nguyễn Phước Cương[3][4], ông Cương vốn là bầu gánh hát Đại Phước Cương, và thân mẫu của bà là nghệ sĩ Nhân dân Bảy Nam. Bà có người anh ruột là danh hài Ngọc Trai và em gái ruột tên là Kim Quang. Ông Cương là con trai của vua Thành Thái nên Kim Cương là cháu nội của ngài.

Sinh ra trong gia đình nghệ thuật, bà cố, bà nội và cha ruột đều làm bầu gánh, bên mẹ có 11 người cậu dì thì 4 người nổi danh là Năm Phỉ, Bảy Nam, Chín Bia, Mười Truyền, bà đến với sân khấu từ lúc mới sinh được 18 ngày tuổi trong vai con của Quan Âm Thị Kính. Với “vai diễn” đầu đời này, bà được vinh hạnh “diễn” trong dịp mừng thất tuần của Đức Tiên Cung Dương Thị Thục – mẹ của Vua Khải Định với “đạo cụ” là một bình sữa.[5][2]

Nhọc nhằn con đường thẩm mỹ và nghệ thuật[sửa|sửa mã nguồn]

Sự nghiệp diễn xuất đến sớm, bà nhanh gọn trở thành đào non trong đoàn Đại Phước Cương, cùng cha mẹ và những thành viên trong đoàn đi lưu diễn khắp nơi. Vai diễn chính thức tiên phong của bà là vai Na Tra trong vở ” Na Tra lóc thịt “, do chính mẹ bà viết ngữ cảnh. [ 5 ]

Bà nổi tiếng trong những vai kịch buồn rơi nước mắt hay những vai dí dỏm. Giữa thập niên 1950, ký giả Nguyễn Ang Ca đặt biệt hiệu “kỳ nữ” cho bà, từ đó dân chúng biết đến danh hiệu Kỳ nữ Kim Cương.

Bà từng soạn nhiều kịch bản kịch nói với bút danh Hoàng Dũng, nổi tiếng với kịch bản Lá sầu riêng (1963),[6][7] về sau từng đi tu nghiệp Bulgaria ngành đạo diễn.

Ngoài ra, bà còn làm Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ người tàn tật, trẻ em khiếm thị, trẻ em mồ côi Thành phố Hồ Chí Minh. Bà cũng là Phật tử với pháp danh Từ Huệ.[8]
[9]

Tình cảm với nhà thơ Bùi Giáng[sửa|sửa mã nguồn]

Bùi Giáng có tình cảm với Kim Cương khi bà mới 19 tuổi. Ông tỏ tình với bà nhưng không thành vì bà thấy ông có vẻ như bất bình thường. [ 10 ]Sau đó, Bùi Giáng vẫn giữ tình cảm với bà trong suốt cuộc sống ông. [ 11 ] Cả đời Bùi Giáng chỉ nhớ mỗi số điện thoại cảm ứng nhà của Kim Cương, khi ông làm rối loạn trật tự, bị công an ” hỏi thăm ” cũng chỉ biết đọc lên số điện thoại thông minh này ; lúc bị ngã xe vào cấp cứu bệnh viên, tỉnh lại cũng mang số điện thoại thông minh ra để vấn đáp bác sĩ. [ 10 ]

Viết hồi ký[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 10 tháng 5 năm năm nay, Kim Cương đã ra đời cuốn hồi ký của bà ” Sống cho người – sống cho mình “. Bà có dự tính viết hồi ký từ năm 1973 nhưng do nhưng do gặp nhiều trở ngại cuốn hồi ký bị bỏ lỡ, 40 năm sau hồi ký mới chính thức ra đời fan hâm mộ. [ 12 ] [ 13 ]

  • Nghệ sĩ Ưu tú (1988)
  • Nghệ sĩ Nhân dân (2011)

Hoạt động thẩm mỹ và nghệ thuật[sửa|sửa mã nguồn]

  • Điêu Thuyền (trong vở Phụng Nghi đình)
  • Giai nhân và ác quỷ
  • Na Tra lóc thịt
  • Diệu (trong vở Lá sầu riêng)
  • Bê, Bích (trong vở Dưới hai màu áo)
  • Trà hoa nữ (trong vở Trà hoa nữ)
  • Tania (trong vở Tania)
  • Nhân danh công lý
  • Lan và Điệp
  • Biển động
  • Lôi Vũ
  • Bông Hồng cài áo
  • Lòng nhân đạo
  • Ngọc Bồ Đề (1956)
  • Bích câu kỳ ngộ
  • Lưu Bình – Dương Lễ (1957)
  • Lý Chơn Tâm cỡi củi
  • Ám ảnh
  • Đôi mắt huyền (1960)
  • Bẽ bàng (1961)
  • Mưa rừng (phim) (1962)
  • Loan mắt nhung (1970):
  • Biển động (1971)
  • Mưa trong bình minh (1972)
  • Chiếc bóng bên đường (1973)
  • Tứ quái Sài Gòn (1973)
  • Người chồng bất đắc dĩ (1974)
  • Đất khổ (1974)
  • Nhạc lòng năm cũ
  • Lá sầu riêng (1993)
  • Trà hoa nữ (1994)
  • Nụ hôn đầu xuân
  • Phụng Nghi Đình
  • Giọt máu rơi
  • Dưới hai màu áo
  • Người tình trễ xe
  • Sắc hoa màu nhớ (1993)
  • Huyền thoại mẹ
  • Người mua hạnh phúc
  • Trương Chi – Mỵ Nương

Các ngữ cảnh do Hoàng Dũng ( Kim Cương ) viết[sửa|sửa mã nguồn]

  • Lá sầu riêng
  • Dưới hai màu áo
  • Trà hoa nữ
  • Tôi làm mẹ
  • Vực thẳm chiều cao
  • Bông hồng cài áo

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]