Ô nhiễm đất và sức khoẻ cộng đồng – Tài liệu text

Ô nhiễm đất và sức khoẻ cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.06 KB, 15 trang )

Ô nhiễm đất và sức khoẻ cộng đồng
Bộ môn Sức Khỏe Môi Trường –Đại Học Y Hà Nội
Mục tiêu:
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được đặc điểm vệ sinh và vai trò của đất trong môi trường sinh thái.
2. Trình bày khái niệm, nguyên nhân ô nhiễm đất.
3. Phân tích được tác hại ô nhiễm đất tới sức khẻ cộng đồng.
4. Nêu các nguyên tắc cơ bản phòng chống ô nhiễm đất.
1. Vai trò của của đất đối với môi trường sinh thái
Theo nhà triết học cổ Hy Lạp thì trái đất được hình thành từ 4 thành phần cơ bản:
đất, nước, không khí và cây cối. Ngày nay, người ta khẳng định, từ 4 yếu tố cơ bản đó
cần thiết cho sự sinh tồn, phát triển của con người và các sinh vật khác. Trong 4 thành
phần cơ bản trên, đất là thành vô cùng quan trọng của môi trường đối với con người, bởi
vì:
– Đất là đối tượng của lao động sản xuất nông nghiệp, từ đất, cây trồng cung cấp
lương thực nuôi sống con người và ô nhiễm đất gắn liền với ô nhiễm thực phẩm.
– Đất là nơi ở của con người và sinh vật; nơi xây dựng nhà cửa, nhà máy, xí
nghiệp, thành phố và các công ttrình công cộng.
– Từ các hoạt động sống của mình như sinh hoạt, lao động sản xuất, con người
thải loại các chất thải bỏ vào đất: rác thải, nước thải sản xuất, sinh hoạt, xác súc vật và đất
còn là nơi yên nghỉ của con người. Vô tình hay hữu ý, đất là nơi chứa đựng những chất
thải loại của con người và gây cho đất tình trạng nhiễm bẩn và ngược lại, đất cũng chính
là nguồn chứa và dự trữ các yếu tố độc hại ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
2. Tính chất và thành phần của đất
2.1. Cấu trúc và thành phần:
Trái đất có đường kính 6357 – 6378 km với diện tích bề mặt là 510 triệu km
2
. Lớp
vỏ trái đất dày 15 – 20 km, có thành phần cơ bản sau:
2. 1. 1. Thành phần hoá học:
Vỏ trái đất có 64 nguyên tố hoá học cơ bản, trong đó 8 nguyên tố thường gặp chiếm

94,8- 98,6% tỷ trọng phân bổ như sau:
– Oxy 49,13%
– Silic 26,00%
– Nhôm 7,45%
– Sắt 4,20%
– Canxi3,25%
– Natri 2,40%
– Magie 2,35%
– Kẽm 0,02%
Các nguyên tố còn lại: N, Bo, Cu, Co, K, Ti, C, P chiếm 5,20%. Tuy nhiên, sự
phân bố các nguyên tố hoá học không đồng đều và rất ít ở hạng đơn chất (thường ở dạng
hợp chất, pha tạp ) cùng các thành phần hữu cơ khác tạo ra các chất sống trong các quá
trình trao đổi chất.
2. 1. 2. Các chất khoáng:
Các phức hợp liên kết của các nguyên tố hoá học vô cơ và hữu cơ tạo ra sự đa
dạng thành phần khoáng trong đất. Ngày nay, người ta đã biết rõ có khoảng 13.000 dạng
quặng và muối khoáng. Dựa vào thành phần hoá học, người ta chia làm 5 loại chính sau:
– Các chất đơn giản: là các kim loại và quặng kim loại.
– Quặng hỗn hợp dạng Sulfit.
– Các hợp chất oxi hoá như oxyt, hydroxyt, Silicat.
– Các loại muối.
– Các hợp chất hữu cơ: Dầu mỏ, khí tự nhiên
2. 1. 3. Nước trong đất:
Trái đất có chứa lượng nước rất lớn, khoảng 2,46 triệu km
3
. Trong đó 56% ở trên
bề mặt biển, sông hồ, 42% nước ở trong lòng đất và 2% ở dạng hơi nước trong không
khí. Nhưng lượng nước con người có thể khai thác, sử dụng được rất ít chỉ khoảng 2 –
4%.
Nước ở trong đất tham gia vào quá trình tạo vòng tuần hoàn của nước trong tự

nhiên: Ở trong đất nước được chia làm 2 phần chính. Nước ngầm, trong các mạch ngầm
trong lòng đất và nước trong cấu tạo đất; nước ở trong đất, biểu hiện độ ẩm của đất, tồn
tại ở dạng là:
– Nước liên kết gắn với các phần tử đất, không có khả năng dịch chuyển và cây
cối không sử dụng được loại nước này.
– Nước trọng lực: nằm trong các khoảng hổng của các phần tử đất và theo trọng
lực thấm sâu xuống các lớp dưới bổ xung cho nguồn nước ngầm.
– Nước dạng mao dẫn, chúng nằm trong các lỗ như li ti của phần tử đất, không chịu
tác động của trọng lực mà chuyển động nhờ lực mao dẫn. Hệ rễ thực vật sử dụng dạng
nước này cùng với các chất dinh dưỡng từ đất.
2. 1. 4. Không khí:
Không khí có trong đất biểu hiện độ thoáng của đất. Trong đất thường xuyên có sự
trao đổi không khí ở lớp đất trên bề mặt, còn gọi là “sự hô hấp của đất”. Không khí trong
đất được sinh ra trong quá trình phân huỷ vật chất bởi các phản ứng hoá học, hay phân huỷ
của vi sinh vật. Thành phần không khí trong lòng đất rất khác nhau phụ thuộc vào độ ẩm,
thành phần cơ học và cấu trúc của đất cũng như hoạt động của hệ sinh vật hoại sinh trong
đất. Thông thường, thành phần khí trong đất theo tỷ lệ %: Nitơ 78, oxy 21, argon 0,9,
Cacbonic 0,03 và rất khác so với thành phần không khí trên bề mặt trái đất.
Các phản ứng phân huỷ không khí xảy ra ở dưới dạng các lớp đất sâu, khi lượng
oxy trong đất dưới 5,5 cm
3
/ kg đất (tương đương 2,5- 5%).
2. 1. 5. Sinh vật:
Hệ sinh vật trong đất bao gồm thảm thực vật, các nguyên sinh động vật và hệ vi
sinh vật hoại sinh.
– Thảm thực vật sử dụng nguồn năng lượng mặt trời, CO
2
và H
2
O muối khoáng

tạo nên chất hữu cơ và tiếp tục đưa vào quá trình tuần hoàn vật chất, năng lượng. Người ta
tính rằng, 1 năm trong quá trình sống của thảm thực vật trên bề mặt trái đất tạo ra 232,5 tỷ
tấn chất hữu cơ và chúng đã sử dụng 90,1 tỷ tấn Cácbon, 5,3 tỷ tấn Nitơ, 20 tỷ tấn muối
khoáng các loại (K,Ca, Mg, P ) số còn lại nước trong đất.
Nhờ phát triển hệ rễ của thực vật tạo cho đất tơi xốp, trao đổi chất, thay đổi các
thành phần khoáng sẽ giúp cho hệ vi sinh vật trong đất phát triển. Như vậy, thảm thực vật
có ích lợi rất lớn cho môi trường: tạo dòng không khí, hấp thu bụi, cặn không khí, làm
sạch đất, thay đổi nhiệt độ, độ ẩm của đất, không khí.
– Hệ vi sinh vật trong đất: có chức năng bài tiết các men khác nhau thúc đẩy quá
trình phân huỷ vật chất trong đất qua đó chúng tạo nên các chất dinh dưỡng cho thực vật
phát triển. Có các nhóm vi sinh vật: vi khuẩn hoại sinh hiếm khí, kỵ khí, nấm, proteus và
các nguyên sinh động vật (ví dụ giun đất).
Số lượng vi sinh vật trong đất rất lớn; nếu tính ở 25cm lớp bề mặt có tới 5 – 7
tấn/ha.
2. 2. Các hoạt động bình thường của đất:
Đất là thành phần môi trường đặc biệt của hệ sinh thái, trong nó bao gồm các yếu
tố vô sinh và hữu sinh. Bình thường ở một vùng nhất định, hệ sinh thái ở vùng đó phát
triển cực thịnh, ổn định và cân bằng (khi không có tác đọng nào của con người). Tại đó
trong đất và trong hệ sinh thái hoang dã này có diễn ra hoạt động bình thường sao cho sự
chuyển hoá động vật chất ở vào chu trình khép kín, cũng như vòng tuần hoàn năng lượng
cũng được khép kín.
Ví dụ: ở trong đất các chất hữu cơ (từ lá cây, cây chết, chất thải, động vật, xác
động vật chết ) được các vi sinh vật kỵ khí và hiếu khí phân huỷ, (cùng tham gia có các
nguyên sinh động vật nấm men ) tạo ra các chất dinh dưỡng dạng muối vô cơ. Thực vật
sống trên đất đó sử dụng các chất dinh dưỡng sẵn có trong đất do vật phân huỷ tạo ra cùng
với quá trình quang hợp tạo ra chất hữu cơ đặc trưng cho chúng giúp cho cây sinh trưởng
phát triển. Lúc đó, vật sản xuất (cây thực vật) được động vật ăn thực vật (vật tiêu thụ) và
theo chuỗi thức ăn lại trở về với đất nhờ vi sinh vật, nấm men (vật phân huỷ) trả lại môi
trường.
Như vậy, nhờ quá trình hoạt động của vi sinh vật hoại sinh, nấm men, các nguyên

sinh động vật khác mà vòng tuần hoàn vật chất khép kín. Và chính đất giúp cho hệ sinh
thái cân bằng ổn định. Đó là bản chất quá trình tự làm sạch của đất, nhờ đó mà môi
trường trong sạch, sự sống phát triển, ổn đinh. Khả năng tự làm sạch đất xảy ra nhanh hay
chậm, hoàn toàn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện khí hậu thời tiết, tính chất,
thành phần của đất, chế độ nước.
Khi con người, qua lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất, lương thực nuôi sống
cho mình, đất được sử dụng như tài nguyên vô tận. Chính trong hoạt động sống đó, vô tình
hay hữu ý con người trả lại vào đất các chất thải ngày càng nhiều với vô số lượng thành
phần và vượt quá khả năng tự làm sạch của đất và đất bị ô nhiễm. Đất sẽ chứa đựng trong
nó các yếu tố độc hại và ngược lại tác động tới sức khoẻ, bệnh tật cho con người.
3. Nguyên nhân và nguồn gây ô nhiễm đất.
3. 1. Khái niệm:
Theo Hiến chương Châu Âu: “ Ô nhiễm môi trường là khi có những thay đổi tính
chất thành phần của môi trường (đất, nước, không khí, thực phẩm) vượt quá ngưỡng nào
đó có tác động tới hoạt động bình thường của con người, sinh vật và môi trường sinh
thái”.
Ô nhiễm đất là những biến đổi tính chất, thành phần của đất, gây nên tác động có
hại tới sức khoẻ con người và môi trường sinh thái không chỉ ở hiện tại mà cả tương lai
lâu dài.
3. 2. Nguồn ô nhiễm đất:
Cũng như các thành phần khác nhau của môi trường (không khí, nước, thực phẩm)
ô nhiễm đất do nhiều nguyên nhân gây ra, mà nguyên nhân cơ bản, đất là nơi chứa đựng
tất cả các chất thải loại và hoạt động sống của co người.
– Về các tác nhân ô nhiễm, đất chia ra 3 nhóm tác nhân sau:
+ Các tác nhân lý học: là sự lắng đọng bụi, chất lắng đọng của ô nhiễm không khí,
rửa trôi, lắng đọng của nước, các chất phóng xạ.
+ Các tác nhân hoá học vô cơ hoặc hữu cơ độc hại.
+ Các tác nhân sinh học như vi khuẩn, vi rút, bào tử nấm, các trứng kí sinh trùng.
– Về nguồn gốc của các chất ô nhiễm, được chia ra 2 nguồn ô nhiễm lớn là do tự
nhiên và do con người.

3. 2. 1. Các chất nhiễm bẩn từ tự nhiên:
Vỏ trái đất có chứa nhiều chất khoáng tự nhiên mà nhiều chất trong đó có độc tính
cao. Phân tích đất tự nhiên, người ta xác định được ở những vùng khác nhau có những
chất độc khác nhau và người ta cho rằng điều đó là do cấu trúc địa chất. Ví dụ, như các
kim loại: Hg, As, Cad, Ni Một lý do khác, được giả thiết rằng các hoá chất độc này tăng
cao ở trong đất, do được bổ xung từ chất thải sản xuất công nghiệp tích tụ lại hoặc do
những biến động của cấu trúc vỏ trái đất gây ra: như động đất, núi lửa, cháy rừng
Những biến động của tự nhiên, thay đổi thời tiết khí hậu; bão lụt, cuồng phong,
hạn hán, triều cường góp phần phân bổ các chất ô nhiễm từ vùng này đến vùng khác. Ví
dụ người ta tìm thấy DDT, 666 ở trong đất, băng đá ở 2 vùng cực, nơi mà không có hoạt
động sống của con người.
3. 2. 2. Nguồn ô nhiễm đất chủ yếu do hoạt động sống của con người:
3. .2. 2. 1. Do chất thải sinh hoạt:
Cách đây không lâu ô nhiễm đất chủ yếu là do chất thải sinh hoạt của con người:
rác, phân hữu cơ và phế thải sinh hoạt. Trong đó thành phần chủ yếu là các chất thải hữu
cơ và thường kèm theo nó là các vi sinh vật gây bệnh. Bình thường các chất thải hữu cơ
này được quá trình tự làm sạch của đất phân huỷ. Khi lượng chất thải quá lớn (sự tăng dân
số, nhu cầu ngày càng tăng), vượt quá khả năng có thể của đất hoặc không có thời gian để
phân huỷ dẫn tới đất bị ô nhiễm chất hữu cơ, các sản phẩm phân huỷ trung gian của chất
hữu cơ có Nitơ, Lưu huỳnh, Phốtpho.
Ngoài ra, cùng với các chất thải hữu cơ là các vi khuẩn gây bệnh, trứng ký sinh
trùng và gây nên tình trạng lan tràn các bệnh nhiễm trùng đường ruột, hoại thư và các vi
khuẩn kỵ khí khác. Thời gian tồn tại của các vi sinh vật trong đất phụ thuộc vào loại đất,
thành phần của đất, thời tiết khí hậu, lượng chất hữu cơ và khả năng chịu đựng của chúng
ở môi trường. Ví dụ: các vi sinh vật tạo được vỏ,nha bào hay bào tử có khả năng tồn tại ở
trong đất từ vài tháng tới vài năm.
Ngày nay, ngoài thành phần chất hữu cơ, các vi khuẩn gây bệnh, trong rác thải,
phế thải sinh hoạt còn có số lượng lớn các hợp chất hoá học và thành phần càng ngày càng
đa dạng, như:
+ Vỏ bao bì đóng gói: vỏ chai nhựa, thuỷ tinh, túi nilon, hộp kim loại

+ Các chất tẩy rửa sát trùng: nhà bếp, nhà vệ sinh, bột giặt tẩy có các
chất hoạt tính bề mặt
+ Rác, nước thải của các bệnh viện, lò mổ có nhiều vi sinh vật gây bệnh
Các loại chất thải này, ngày càng chiều trong phế thải của các khu dân cư đô thị đông
đúc,thành phố công nghiệp thiếu các công trình vệ sinh và sử lý không triệt để.
3. 2. 2. 2. Do chất thải sản xuất công nghiệp:
Sự tăng trưởng nhanh chóng của nền sản xuất công nghiệp, hệ thống quản lý phế
thải, nước thải sản xuất còn nơi lỏng, công nghệ sản xuất không đồng bộ, máy móc cũ, sử
dụng phế thải trong tái sản xuất là nguyên nhân ô nhiễm nặng nề cho môi trường nói
chung và ô nhiễm đất nói riêng. Nguyên nhân đó là:
– Vấn đề sử dụng nước thải thành phố, khu công nghiệp trong nông nghiệpqua cánh đồng
tưới, cánh đồng lọc và các khu dân cư xung quanh khu công nghiệp dẫn tới tích luỹ các
chất độc hại khó phân huỷ trong đất. Qua hệ rễ thực vật, có thể ngấm sâu lớp đất phía
dưới, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nước ngầm. Đồng thời gây ra những biến đổi quá
trình phân huỷcủa hệ sinh vật hoại sinh trong đất làm tình trạng ô nhiễm đất trầm trọng
thêm. Nhất là các chất hoá học độc, khi không được phân huỷ hoàn toàn sản phẩm trung
gian của chúng có độc tính lớn hơn so với chất gốc.
-Sự lắng đọng các chất độc trong cặn bùn của nước thải sản xuất cũng là nguồn ô nhiễm
quan trọng trong đất. Ví dụ: nước thải của nhà máy chế biến quặng Chisô của Nhật Bản,
làm ô nhiễm cadmi nặng nề đất của lưu vực sông Jinzu .
-Rác thải phế thải của sản xuất, chôn lấp trong các bãi rác cũng là nguy cơ rất lớn làm ô
nhiễm đất. Người ta đã phát hiện được xung quanh bãi rác, công nghiệp, nhà máy có Hg,
As, F, Cad và một số chất khác có nồng độ cao gấp 3-5 lần ở vùng chứng. Và các chất
này trong thực phẩm cũng tăng gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Mà hiện nay, biện pháp
chôn lấp vẫn còn là cách xử lý rác, phế thải phổ biến ở nhiều nước.
3. 2. 2. 3. Chất thải từ sản xuất nông nghiệp:
Phát triển nông nghiệp hiện đại luôn đi kèm với sử dụng các chất bảo vệ thực vật,
chất kích thích tăng trưởng, phân bón hoá học, chất hữu cơ, trụi lá. Trong các hoá chất này
có nhiềuchất độc nguy hiểm, bền vững, không chỉ tồn tại ở ngay nơi sử dụng mà còn lan
rộng đến vùng lân cận, kể cả xa hơn (theo gió, dòng chảy) gây ô nhiễm đất, nước, không

khí. Đặc biệt là các hoá chất bảo vệ thực vật nguồn gốc Clo hữu cơ (DDT, hexacloran,
heptaclo) kể cả phốtpho hữu cơ (mêtanphốtpho, clorophốtpho). Có nghiên cứu xác định
được Metanphốtpho tồn tại rất lâu trong đất chua hoá ( tới 2µg/kg đất). Ngoài ra, các hóa
chất bảo vệ thực vật nguy hiểm phải kể tới các hoá chất mà trong thành phần có các kim
loại nặng như Hg, Cu, As, Pb và một số cacbonat.
3. 2. 2. 4. Các nguồn khác do con người:
– Do giao thông vận tải và phế thải giao thông.
– Các khu nghĩa trang.
– Do chiến tranh, với các vũ khí giết người hàng loạt (ABC).
– Sự lắng đọng các chất ô nhiễm từ không khí, nước bị ô nhiễm xuống đất.
– Sự lưu chuyển các chất ô nhiểm trong hệ động thực vật trong chu trình vật chất tự
nhiên tới đất( qua xác động thực vật trong đất).
4. Tác động ô nhiễm đất tới sức khỏe bệnh tật
4 .1 Các tác nhân sinh học:
Những tác nhân sinh học có thể làm ô nhiểm đất và gây ra bệnh ở người được
chia làm 4 nhóm:
4. 1. 1. Tác nhân truyền bệnh Người – Đất – Người:
Trực khuẩn và nguyên sinh động vật đường ruột có thể làm ô nhiễm đất do:
– Những phương pháp xử lý chất thải bỏ mất vệ sinh.
– Sử dụng phân bón lấy từ các loại hố xí hay bùn trong nước sinh hoạt hoặc sử
dụng cánh đồng lọc, cánh đồng tưới bằng nước thải sinh hoạt. Đất có thể bị ô nhiễm trực
khuẩn lỵ, thương hàn, phẩy khuẩn hoặc amip. Tuy nhiên, những bệnh do các vi sinh vật
này gây ra thường lan truyền bởi nước và truyền bệnh trực tiếp từ người này sang người
khác hoặc do thực phẩm. Ngoài ra, ruồi tiếp xúc với đất nhiễm bẩn bởi phân, sinh sản ở
đó và truyền mầm bệnh.
Trực khuẩn lỵ: Trực khuẩn lỵ chết tương đối nhanh trong phân tươi, nhưng sau
khi tẩy uế phân thì chúng có thể tồn tại lâu nhờ có chất hữu cơ trong đất. Nó thường bị
các tia bức xạ mặt trời tiêu diệt. Người bị nhiễm khuẩn là do ăn phải rau quả bị đất làm
nhiễm bẩn hay tiếp xúc với phân tươi.
Trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn: Đất trồng là môi trường không thuận

lợi cho các loại vi khuẩn trên phát triển. Các loại vi khuẩn này sẽ chết sau một thời gian
rơi vào đất vì không cạnh tranh được với các vi khuẩn hoại sinh ở đất. Song, tuỳ theo
mức độ nhiễm bẩn và loại đất (nhiệt độ, độ ẩm, dự trữ chất hữu cơ, pH, khuẩn lạc vi
khuẩn đối kháng ) trực khuẩn thương hàn có thể tồn tại khá lâu (từ 2 đến 4 tuần hoặc
hơn nữa) trong đất. Cho nên vai trò dịch tễ học của đất trong bệnh thương hàn không thể
phủ định hoàn toàn được.
Phẩy khuẩn tả trong đất: Phẩy khuẩn tả tồn tại ở trong đất không quá một tháng.
Khả năng sinh tồn của nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Đất bị nhiễm bẩn bởi phân
tươi, Các chất hữu cơ kéo dài thời gian tồn tại của phẩy khuẩn tả từ 5 – 7 tháng. Khả năng
sinh tồn của nó còn bị ảnh hưởng bởi thành phần cơ bản của đất. Bên cạnh đó là hiện
tượng đối kháng vi khuẩn và những nhân tó sinh học quyết định.
Truyền bệnh Người – Đất – Người còn do các loại ký sinh trùng (giun sán): Ký
sinh trùng được truyền qua đất hoặc trứng giun sán, ấu trùng của chúng sau thời gian ủ
bệnh tương đối, trở thành tác nhân gây bệnh cho người.
Quan trọng hơn cả là giun đũa, giun xoắn Necator americanua và giun móc. Hai
loại giun cuối cùng này chính là tác nhân gây bệnh giun móc. Còn giun lươn ít truyền
bệnh qua đất hơn. Những giai đoạn tự do của giun sán lan truyền qua đất nhiều nguy cơ.
Dựa vào nhu cầu đặc biệt của giai đoạn này, mỗi loại có một hoá trị sinh thái khá rộng,
phụ thuộc vào yếu tố khí hậu. Song phạm vi những điều kiện thuận lợi nhất để chúng tồn
tại và phát triển lại thu nhỏ lại và phụ thuộc vào điều kiện vi khí hậu hơn là đại khí hậu.
Điều kiện thuận lợi cho mỗi loại phụ thuộc vào lượng mưa, nhiệt độ không khí, thực vật,
ánh sáng mặt trời, chuyển động không khí cũng như vào kết cấu độ ẩm của đất. ở những
lớp đất bị phủ tuyết, người ta thấy chứng giun đũa có thể sống trong điều kiện nhiệt độ
thấp. Tuy vậy, bệnh giun móc chủ yếu xuất hiện ở những vùng nhiệt đới ẩm.
Bệnh lỵ đường ruột: Entamoeba dysenteria có thể tồn tại ở trong đất nhất là đất bị
ô nhiễm phân. Ở nơi nào giải quyết phân chưa tốt, thường đất ở nơi đó có mang kén
amip. Trong những hội chứng lỵ gặp vào mùa nóng ở các nước thuộc miền nhiệt đới,
ngoài nguyên nhân do các trực khuẩn lỵ, còn thấy cả Entamoeba dysenteria. Số người
mang amip ở những nơi đang có dịch rất cao, tới 86%. Còn ở những nơi không có dịch,
tỷ lệ trên giảm thấp còn 1% (Tỷ lệ này bao gồm cá thể bào nang và cả thể hoạt động).

Thói quen mất vệ sinh luôn luôn góp phần vào việc duy trì chu kỳ nhiễm khuẩn bởi các
tác nhân gây bệnh truyền qua đất.
Các vi rút đường ruột: Trong đất người ta tìm thấy vi rút bại liệt ECHO và
Coxsackie (chủng ECHO
7
và ECHO
9
) gây viêm màng não và sốt phát ban, viêm cơ tim,
viêm não trẻ sơ sinh. Virút đường ruột chịu đựng bền vững các tác nhân lý – hoá và sống
dai dẳng ở ngoại cảnh. Ta lại biết, tuỳ theo các loại đất mà mức hấp thụ virút đường ruột
có khác nhau. Đất sét pha cát thu hút nhiều các virút đường ruột hơn cả. Đất còn hút
nhiều hơn các virút đã được làm giảm độc tính và các virút ấy có thể tách ra khỏi đất một
cách khá dễ dàng để xâm nhập vào cơ thể mà gây bệnh. Khi tách ra như vậy, độc lực của
nó vẫn giữ nguyên. Đối với các mẫu đất có pH trung tính hay hơi axít virút dễ tách hơn.
Trong môi trường kiềm, virút được nuôi cấy dễ phát triển hơn trong môi trường axít. Yếu
tố nhiệt độ đối với virút có ý nghĩa quyết định. Ở các xứ lạnh,virút đường ruột lan tràn
nhiều hơn ở các nước xứ nóng. ở đấy virút sống từ 25-170 ngày, virút phát triển mạnh ở 3
-10
o
C. Độ khô hanh của đất ảnh hưởng đến sự phát triển của chúng. Virút chỉ sống được
15 ngày trong đất cát khô và ECHO
7
chỉ sống được 5 ngày. Nếu độ ẩm tăng từ 10% trở
lên, virút sẽ sống được 60 ngày và ECHO
7
sống được 90 ngày. Đối với rau quả tiếp xúc
với đất từ 18 – 22
0
C, sức sống của virút đường ruột ở rau bị giảm sút nhanh, trong khi ở tủ
lạnh virút sống tới 68 ngày. Thời gian tồn tại của virút ở đất lâu hơn ở rau, tác dụng của

ngoại cảnh (nhiệt độ, độ ẩm, pH của đất) là điều kiện để virút đường ruột tồn tại. Phân
người chứa rất nhiều virút. Có những mẫu phân pha loãng tới 6000 lần mà sau 4 tuần vẫn
còn tìm thấy virút đường ruột, đó là phân của người mắc bệnh.
5.1.2. Tác nhân truyền bệnh Vật nuôi – Đất – Người.
Trong số bệnh của động vật truyền sang người, đất có thể giữ vai trò chủ yếu
truyền tác nhân nhiễm khuẩn từ vật nuôi sang người.
Bệnh xoắn khuẩn vàng da (bệnh do Leptospira): Leptospira gây bệnh đồng thời
cho vật nuôi và cho người trong tất cả mọi nơi trên thế giới. Nó biểu hiện quy luật dịch tễ
học tương tự như quy luật của nhiều bệnh động vật khác đứng về ý nghĩa truyền từ vật
nuôi sang vật nuôi và từ vật nuôi sang người. Chủ yếu vẫn là ở trâu bò, còn ở lợn chưa
được xác định rõ rệt. Trong một số vùng, dê, cừu, ngựa cũng bị nhiễm khuẩn. Những loài
gặm nhấm như chuột cống, chuột chù, chuột đồng thường mang mầm bệnh. Sự phân tán
những loài xuắn khuẩn Leptospira liên quan rõ rệt với điều kiện của môi trường nhất là
điều kiện tiếp xúc với vật nuôi mắc bệnh, với nước hoặc bùn và người. Những vật nuôi
mang bệnh thường đào thải qua nước tiểu khoảng 100 triệu Leptospira trong 1 ml. Nếu
nước tiểu được trộn lẫn với nước hoặc bùn có pH trung tính hay kiềm nhẹ thì các xuắn
khuẩn có thể sống tới hàng tuần. Những người lao động nông nghiệp thường mắc bệnh
này vì đặc biệt phải tiếp xúc phải tiếp xúc với những cánh đông tưới và những đồng
ruộng trồng trọt, những vùng trồng mía.
Trực khuẩn than: Người mắc bệnh than ít gặp. Tuy vậy, bệnh than vẫn giữ một
vai trò quan trọng cả ở bệnh của người cũng như cả ở những tổn thất về kinh tế trong lĩnh
vực chăn nuôi. Những mầm trực khuẩn than rất đề kháng với những tác nhân hoá học và
với những điều kiện bất thuận lợi của môi trường bao quanh. Chúng có thể sống hàng
năm trong đất và trong những tổ chức của động vật như da, lông ngựa, lông cừu. Khi
mầm bệnh lưu trú trong vật nuôi ở một vùng nào đó, ổ gây bệnh sẽ được phát sinh đối với
các động vật do khả năng thường trú của mầm bệnh trong đất.
Bệnh sốt Q: Bệnh sốt Q được gây ra bởi Rickettsia Coxiella Burnetii trở thành
quan trọng đối với sức khoẻ của nhân dân trong hầu hết các nước trên thế giới. Rickettsia
có thể có mặt trong đất và bụi, ở nơi mà chúng có thể sinh tồn trong những thời kỳ dài
nhờ ở sức đề kháng mạnh mẽ của chúng với điều kiện khô hanh. Ở những miền có những

đàn chim sinh đẻ, trong những khoảng đất rào kín, các mầm bệnh Rickettsia trong bụi của
đất bỗng trở thành mạnh mẽ khi đất bị che mất ánh sáng Mặt Trời. Ở miền Bắc nước ta,
có 34 loài và phân loài Haemaphysalia – một giống có nhiều loài nhất trong họ ve cứng
Ixodidae ở Việt Nam. Các loài Haemaphysalia Koch phân bố hầu hết khắp các tỉnh miền
núi và trung du nước ta.
Ngoài ra ở các lâm trường, nông trường và công trường trong những khu rừng
núi, ban đêm các thú hoang hay đến gần nhà người ở, cho nên ve ở các thú rừng dễ liên
hệ được với người. Sau khi biến thái, những con ve này lại bám vào thú rừng hoặc bám
vào trâu bò trên đồng cỏ, hoặc bám vào cây cỏ, các bụi cây gần lối đi, chờ bám vào người
hay các vật chủ khác. Như vậy, ve đã thành lập một cái cầu liên hệ giữa các ổ Rickettsia,
sốt phát ban, sốt phát ban nhiệt đới Trên các động vật hoang dại truyền cho người, gia
súc và các vật nuôi.
Bệnh viêm da do giun. Bệnh viêm da này thường gặp ở những nơi có nhiều mèo,
chó nhiễm Ankylostoma brazilienne. Người bị nhiễm bệnh do sự sâm nhập vào da của
những ấu trùng giun móc di động từ đất lên, xuyên qua da người và gây viêm da ở nhiều
mức độ khác nhau. Nhiễm bệnh này thường ở những người phải tiếp xúc với chất phóng
uế của vật nuôi thải ra đặc biệt ở những trẻ em. Rõ ràng là người ta có thể làm đất sạch
những mầm bệnh này ở nhiều nơi (Hội nghị hỗn hợp FAO/OMS về bệnh động vật).
Những bệnh khác. Những bệnh khác theo phương thức Vật nuôi- Đất- Người cần
được kể tới là những bệnh khuẩn Tôxocara. Chính là bệnh do Tôxocara canis, bệnh
Listeriosis, bệnh Salmonella và bệnh khuẩn Tulare. Mặc dù phần lớn những bệnh khuẩn
ấy được truyền trước hết do tiếp xúc trực tiếp giữa vật nuôi và ngươì hoặc do ăn phải
thức ăn bị nhiễm khuẩn bởi đất phóng uế của vật nuôi. Ta cần phải nói rằng đất cũng có
thể giữ một vai trò quan trọng trong truyền bệnh này.
Cl. Periringens: có trong phân người và động vật. Tuỳ theo số lượng phân tưới
bón vào đất mà đất bị nhiễm bẩn ít hay nhiều. Do điều kiện của đất trồng Cl.
Periringens không có khả năng sống và bị chết dần. ở rau quả, xác người và động vật
cũng gặp vi khuẩn này. Còn phải kể tới Cl. Oedematicua từ ruột động vật theo phân tươi
truyền ra đất. Trong đất trồng trọt hay gặp Cl. Oedematicua, nhưng ít hơn Cl. Periringens.
Cl. Septicus thường sống ở trong ruột động vật ăn cỏ. Trong các loại đất trồng trọt, loại vi

khuẩn này ít được gặp này là Cl. Periringens. Khi tìm thấy Cl. Septicus, có thể nói đất bị
nhiễm bẩn bởi phân tươi.
Các vi rút lây truyền cho người từ súc vật có hai nhóm:
Nhóm A: gồm những vi rút ưa da, gây bệnh ở da động vật (virut gây bệnh lở mồm,
long móng, viêm họng có mụn nước của ngựa, ngoại ban có mụn nước của lợn, chốc loét,
truyền nhiễm của cừu).
Nhóm B: gồm vi rút dại, virut giả dại, virut Côxackia
5. 1. 3. Tác nhân truyền bệnh Đất – Người
Các bệnh mấm: Hầu hết các bệnh nấm nặng ở da ăn sâu vào trong hay lan toàn
thân đều được gây ra do nấm hoặc xạ khuẩn, (Actinomicetes). Chúng phát triển bình
thường như những vi khuẩn hoại sinh ở trong đất hay cỏ khi những sợi nấm khác nhau
xâm nhập vào da qua vết thương. Giống như bệnh do Blastomices máu và các bệnh nấm
khác, những u nấm hay gặp trước hết ở những người đi chân đất hoặc đi giày dép, mặc
quần áo không đủ bảo vệ da. Chúng có thể gây tàn tật suốt đời không chữa được, có khi
phải mổ cắt chi bị nhiễm bệnh đó đi. Bệnh nấm Coccidioides do nấm Coccidioides imitis
gây ra thường được gặp ở những vùng khô hạn hay bán khô hạn. Ở tầng trên của đất tới
độ sâu vài phân hay gần những hang động vật gặm nhấm. Trong những tháng mùa hạ
nắng gắt, thảm thực vật khô đi và chết, gió tràn tới, cuốn bụi mặt đất, cuốn bào tử nấm
vào không khí. Người ta nhắc tới những loại nấm mọc trên mặt đất như địa y có sợi lông
(Geotrichosis), mốc lá cây hay quả thối (Phycomycetosis), nấm trong đất giàu phân gà,
phân chim, phân dơi (Histoplasmosis), nấm trong những tổ chim và trong phân chim bồ
câu (Cryptococcosis), nấm trong rau cỏ thối úa (aspergillosis), nấm trên gỗ cây vừa bị
chặt hoặc ở đó bị xâm nhiễm nước (Sporotrichosis). Tất cả đều theo cơ chế các bào tử
nấm cùng bụi bị gió cuốn vào không trung gây bệnh cho người. Tuy vậy, sinh thái học
của hầu hết các mầm sinh vật tự do có hiệu lực gây bệnh cho người và bệnh sinh của
những bệnh do chúng gây ra còn ít được biết rõ. Nhất là y học đến nay còn chưa chú ý
nhiều đến các bệnh nấm. Song vấn đề này đã được đặt ra trên phạm vi toàn thế giới vì lý
do gây nguy cơ bệnh tật của nấm trong điều kiện lao động sản xuất của công nhân, nông
dân làm đất và trồng trọt. Đất trồng trọt là nguồn chứa tự nhiên của nấm độc họ
Fusarium, Penicillium. Độc tố của nấm Stachibotris alternans gây viêm và hoại tử trên

toàn bộ đường tiêu hoá của ngựa. Các gia súc nhạy cảm với nấm Dendrodochium. Cần
phòng ngừa sự phát triển các nấm có hại trên cây trồng trong thời kỳ sinh trưởng và ở cả
trên thức ăn cho người và gia súc trong thời kỳ bảo quản.
Uốn ván: Uốn ván là một bệnh nặng của người do độc tố của trực khuẩn Nicolaire
gây ra. Chúng phát triển kỵ khí ở những vết thương nhiễm khuẩn. Mầm bệnh này gặp ở
khắp thế giới, mặc dù ở thời đại chúng ta bệnh này tương đối ít xảy ra. Bệnh thường gặp
ở những người làm nông nghiệp, chủ yếu do những vết thương xây xát,bị nhiễm khuẩn
tiếp xúc với đất bón, phân. Tác nhân nhiễm khuẩn Clostridium tetani được phóng ra do
những súc vật bị nhiễm khuẩn đặc biệt là ngựa. Nguồn gây nhiễm tức thời có thể là đất,
bụi hoặc những chất thải của súc vật và người.
Có thể nói rằng vi khuẩn uốn ván gặp khá nhiều trong đất canh tác cũng như (đôi
lúc) trong đất bỏ hoang. Càng lên cao (vùng núi) càng ít gặp vi khuẩn này. Đất bón phân
chuồng chứa nhiều vi khuẩn này. Vi khuẩn uốn ván phân bố rất không đều trong các loại
đất khác nhau. Nó có thể duy trì sức sống vài năm trong đất trồng trọt, nhưng có ít khả
năng sinh sản ở các lớp đất dưới. Độc tố của vi khuẩn này bị phân hủy khá nhanh bởi các
vi khuẩn hiếu khí trong các lớp đất trồng thoáng. Vi khuẩn này không có khả năng sinh
độc tố và không có tác hại rõ rệt khi nó ở trong ruột người. Nếu trong ruột có tổn thương
hoại tử và có những vi khuẩn gây hoại thư thì Cl.tetani sẽ sinh sản nhanh. Tóm lại, người
ta thường gặp Cl.tetani trong ruột người và động vật, nhưng ít gặp trong đất canh tác.
Song vi khuẩn này tồn tại khá lâu trong đất bón phân tươi.
Bệnh ngộ độc thịt: (do Clostridium Botulium): Bệnh ngộ độc thịt là một bệnh ngộ
độc thường gây chết người do những độc tố của Clostridium Botulium gây ra. Nguồn
mầm bệnh là đất hoặc từ ruột súc vật bị bệnh. Độc tố được tạo nên do sự phát triển kỵ khí
của các nha bào trong thức ăn và gây ngộ độc tức thời. Bệnh thường xảy ra do ăn phải đồ
hộp kỹ nghệ không được nấu trước hay những thực phẩm được sấy, tiệt trùng chưa thật
tốt. Ngay từ lúc ban đầu được lưu lại, thực phẩm đã bị các nha bào chất lượng. Botalinon
rải rác trên mặt đất truyền vào. Clostridium Botulium có 5 loại A, B, C, D, E trong đó
loại A, B thường hay gặp nhất. Người và động vật đều nhạy cảm với loại này. Nha bào
của chúng rải rác trong đất, ít gặp loại này ở miền đất ôn đới khí hậu lạnh trong khi ở đất
xứ nóng gặp nhiều hơn. Thành phần cơ học của phần lớn đất bị nhiễm là loại đất sét.

Cl.Botulium có nhiều ở đất canh tác, trồng trọt, kiềm, trung tính và ở một vài loại động
vật trong đất, Cl.Botulium sinh sản mạnh và làm lan truyền vi khuẩn này trong đất. Giun
đất là nơi dự trữ Cl. Botulium. Xác các sinh vật ở đất cũng là nơi tụ tập các vi khuẩn này.
Trong ruột người và động vật máu nóng, Cl.Botulium ở dạng hoại sinh. Chính vì thế mà
người, động vật máu nóng, chim hoang dại, các loài gặm nhấm gieo rắc trong thiên nhiên
mầm bệnh này. Trong các mẫu rau quả, trong thực phẩm lỏng, vi khuẩn này gặp nhiều
hơn. Trong bùn ao hồ cũng gặp Cl.Botulium, do đó cá cũng bị vi khuẩn này làm nhiễm
bệnh.
5. 2. Nhiễm bẩn bởi những tác nhân hoá học và phóng xạ
5. 2. 1. Phân bón hoá học và hoá chất trừ sâu:
Phân bón được dùng với những mục đích canh tác, làm tăng năng suất mùa màng,
nhưng mặt trái của nó là làm ô nhiễm đất do độ không trong sạch của nó.
Những phân bón và chất kích thích sinh trưởng thường không bền vững và những
và sinh vật của đất có thể chuyển hoá chúng. Cũng vì thế mà ngay những sản phẩm Clo
của phênol( ví dụ: những axít policlorophênoxiaxetic mà người ta dùng như những chất
diệt cỏ) đã được chuyển hoá bởi nhiếu chủng trực khuẩn thích nghi với môi trường mới
và được sử dụng ngay làm nguồn dinh dưỡng cho các loại trực khuẩn đó.
Quá trình này cũng được thực nghiệm cho chất dinitro-ocresol và những hợp chất
cùng họ. Các vi khuẩn và nấm mốc của đất có nhiều hơn của nước, ngay cả khi những
dòng nước này bị những chất hữu cơ làm ô nhiễm. Có thể hoàn toàn nói được rằng,
những chất hoá học càng lâu ngày không tiếp xúc với đất thì ngược lại càng nhanh chóng
bị huỷ bởi hoạt động của vi khuẩn đất. Nếu bón cho đất những sản phẩm hoá học như
phênol, trực khuẩn trong đất phát triển tăng lên và nhanh hơn trên những phênol nguồn
gốc tự nhiên. Nhiều thí nghiệm chứng minh rằng, những trực khuẩn đất có nhiều lúc đề
kháng với cả những chất diệt khuẩn mới. Những men chuyển hoá, chịu sự biến đổi cần
thiết để khử độc các hợp chất và trở thành men thích nghi. Cơ chế này làm tiêu biến đi
mất những sản phẩm hoá học lắng đọng trên đất, nhất là trên đất trồng trọt hàng năm
được phun thuốc diệt cỏ trừ sâu để ngăn cản sự xâm lấn của cỏ dại. Chỉ có cách dùng
những sản phẩm hoá học dễ bị tấn công và bị phân huỷ bởi những mầm vi sinh vật
thường xuyên chứa trong đất là lý tưởng nhất. Những hợp chất của chì, thuỷ ngân (những

hợp chất thuỷ ngân đa số được dùng là những hợp chất hữu cơ kim loại) và những muối
của axít asenic hợp thành trong đất những chất cặn lắng bền vững và truyền vào cây trồng
những chất độc hại: chì, thuỷ ngân và asen.
Khuynh hướng hiện nay của những nhà sản xuất thuốc trừ sâu dùng trong nông
nghiệp là xây dựng nên những hợp chất phân huỷ nhanh, cũng như rút ngắn lại tối thiểu
thời gian tiếp xúc của những chất cặn thuốc trừ sâu và những chất phân huỷ của chúng
đối với cây trồng dùng làm lương thực cho người và súc vật.
Tuy vậy, người ta còn biết rất ít về những sản phẩm bị phân huỷ của rất nhiều hợp
chất hoá học. Trong một số trường hợp, những chất gây độc mới có thể tự tạo nên trong
đất ngay cả khi người ta không tìm thấy một dấu vết nào của những chất độc hại ban đầu.
Trong những chất trừ cỏ diệt sâu hữu cơ hiện đang được sử dụng, đề kháng được sự phân
huỷ của vi sinh vật và không bị biến thành sản phẩm trơ cuối cùng, phải kể hàng đầu đến
những hidrocacbua chứa clo như DDT, lindan Andrin, diendrin. Cặn của những chất diệt
cỏ trừ sâu này tỏ ra bền vững, hay bị hấp thu vào những cấu tử của đất cùng với các chất
khoáng và các chất hữu cơ bao bọc. Những chất hoá học này có thể làm ô nhiễm cây
trồng và rễ cây của chúng bị tiêu đi trong đất được phun thuốc trừ sâu.
Cơ chế tác dụng của thuốc trừ sâu lên sinh vật chính là làm tê liệt khả năng dẫn
truyền các xung động thần kinh, dẫn đến hiện tượng co giật rồi làm sinh vật chết. Có 3
loại nhóm thuốc trừ sâu diệt cỏ (bảng 1) chúng đều dễ tan trong tổ chức mô. Nhóm 1 khó
bị phân huỷ, ít độc đối với động vật, còn nhóm 1 và 3 tương đối dễ bị phân huỷ hơn,
nhưng rất độc đối với người và động vật.
Bảng 1
Nhóm 1
Clo + hiđrat cacbon
Nhóm 2
Lân hữu cơ
Nhóm 3
Cacbonat
DDT,DDD,DDE
Anđrin

Dienđrin
666
Clo đan
Linđan
Metyl Parathion
Parathion
Diazinon
Fenthion
TEPP
Azin photmêtyl
Cacbamyl
Zectran
DDT thường tích tụ trong đất và không khí, sau đó rơi xuống biển và được sinh
vật hấp thụ, gây ô nhiễm thực phẩm. Cần chú ý tới nồng độ sinh học là hàm lượng DDT
chứa trong cơ thể các loài sinh vật có khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ dinh dưỡng của
chúng. Số lượng DDT thường bài tiết ra ít so với mức hấp thu vào. Số còn lại này được
giữ trong tổ chức mỡ của các loài sinh vật. Nồng độ DDT thấp trong nước, nhưng lại tăng
lên rất cao gấp nghìn lần trong liên chuỗi thực phẩm. Có thể nói rằng nhờ sử dụng các
loại hoá chất diệt côn trùng, hàng triệu người đã được cứu sống khỏi bệnh dịch, năng suất
mùa màng có tăng lên. Song vì sử dụng rộng rãi với quy mô lớn các thuốc trừ sâu diệt cỏ
trên đã gây ô nhiễm môi trường sống, làm rối loạn phần nào cân bằng sinh thái, tiêu diệt
mất nhiều loài sinh vật không phải là đối tượng, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Bên cạnh đó còn làm cho các loài sâu hại dần dần có sức đề kháng với các thuốc trừ sâu
diệt cỏ.
Do đó để có kết luận chính xác về tác hại của thuốc diệt cỏ, trừ sâu, cần phải
nghiên cứu sâu sự dịch chuyển của chúng ở môi trường và quá trình tích luỹ của chúng
trong đất sự biến đổi trong nước và sự thâm nhập vào các sản phẩm có nguồn gốc thực
vật.
5. 2 .2. Ô nhiễm bởi các chất thải bỏ công nghiệp rắn.
Những chất tẩy rửa của những chất thải bỏ công nghiệp rắn có thể chứa những

sản phẩm hoá học độc hại ở dạng dung dịch. Trong thiên nhiên những chất này có thể
được tích đọng lại và bằng những cơ chế khác nhau gây ô nhiễm cho một liên chuỗi thực
phẩm của người.
– Asen: Theo các tác giả Liên Xô, độ đậm As xung quanh nhà máy cao gấp 4 – 5
lần so với ở khoảng cách nhà máy 500m, gấp 6 lần so với khoảng cách 2500m.
Sau khi hấp thu, As sẽ được đào thải qua đường sữa. Nuôi bò cái bằng thực vật
trồng ở khu nhà máy có đậm độ As cao, thì tỷ lệ As trong sữa bò cũng tăng. Dùng sữa
trên để nuôi trẻ, lượng As thâm nhập vào cơ thể trẻ cũng tăng. Ở những công nhân nữ
làm việc trong khu nhà máy có độ cao thì sữa tiết ra của họ cũng có đậm độ As cao.
– Flo: Đậm độ Flo tăng trong rau, khoai tây trồng cách nhà máy 500m (0,08 –
0,09 mg/100g). Nuôi bò quanh nhà máy đào thải ra Flo cũng thấy bò bị nhiễm độc Flo.
Flo trong cỏ ở cách nhà máy 2km cao gấp 10 lần ở nơi làm chứng, ở cách nhà máy 3 – 6
km cao gấp 2 – 4 lần. Ngay trong sữa bò nuôi ở vùng đó, Flo cũng chiếm tới 0,43 –
0,74mg/lít
– Chì (Pb): Theo MK. Khaxitoran, tuỳ theo khoảng cách với nhà máy, Pb có
những đậm độ khác nhau, càng xa thì đậm độ Pb ở mặt đất càng giảm.
Trong một số thực vật dùng để nuôi súc vật thí nghiệm (ta dùng loại rau có rửa và
loại rau không rửa), cụ thể kết quả thu được như sau:
+ Loại rửa: Pb trong xương súc vật cao gấp 5 lần, trong gan cao gấp 9 lần so với
đối chứng.
+ Loại không rửa: Pb trong xương súc vật cao gấp 20 lần, trong gan cao gấp 27
lần so với đôi chứng.
ở Rumani, trong khói xám một số khu công nghiệp có chứa Pb do gió cuốn đi. Pb
đọng lại trên cỏ nhất là về mùa xuân và mùa thu có mưa; cỏ khô đánh đống cách nhà máy
1,5km chứa từ 200-500mgPb/Kg cỏ ở lớp ngoài và 19,5-37,5mgPb/kg cỏ ở lớp trong.
5. 2. 3. Ô nhiễm bởi chất phóng xạ
Những chất phóng xạ xuất phát từ những vụ nổ bom hạt nhân hoặc những chất
thải bỏ phóng xạ lỏng hay rắn phát ra từ những trung tâm công nghiệp hay nghiên cữu
khoa học, có thể nắng xuống mặt đất và tích tụ ở đó. Những chất phóng xạ này đóng một
vai trò chủ chốt trong tia bức xạ gama được phát sinh ra bởi những chất phóng xạ tích tụ

trên mặt đất. Cũng cần phải lưu ý đến C
14
được sinh ra từ nitơ không khí do tác dụng của
các nơtron trên những Prton (ví dụ trong vụ nổ bom H) và cũng do tác dụng của những
tia bức xạ vũ trụ, chất này tham gia vào chuyển hoá của cacbon ở cây cỏ, xâm nhập vào
cơ thể động vật và trong đất. Tuy vậy, người ta không nghĩ rằng chất này mức độ vừa đủ
để gây nguy cơ độc hại. Những nồng độ của Sr phóng xạ trong đất nói chung có liên quan
với mưa, bởi vì yếu tố này chủ yếu do trầm lắng mà đến mặt đất. Chất Sr
90
trong đất bị
giữ lại ở lớp bên ngoài dày 1- 2cm do những lực tĩnh điện. Nếu đất bị tiêu mòn, những
chất phóng xạ lắng ở đó sẽ bị lôi cuốn đi. Cs phóng xạ được đất giữ lại vững chắc hơn là
Sr. Tuy nhiên, một số thực vật như nấm, địa y, tích tụ Cs gây nguy hại cho động vật ăn
phải các loài thực vật đó.
Chất phóng xạ phát sinh ra từ những sản phẩm của những chất phân hạch, lắng
xuống đất trong những vụ nổ bom hạt nhân đạt tói 10-30% chất phóng xạ tự nhiên của
đất trên nửa bán cầu Bắc. Do đó những vụ nổ bom hạt nhân kéo dài có thể gây ô nhiễm
đất và làm mọi người phải quan tâm đến nguy cơ của chúng.
6. Biện pháp phòng chống ô nhiễm đất
6. 1. Làm sạch cơ bản.
Đối tượng chính ở đây là phòng ngừa nhiễm khuẩn nguồn gốc từ phân. Phải ngăn
cản phân người và nước thải không được tiếp xúc với người dù trực tiếp hay gián tiếp. Hệ
thống được tạo ra thoả mãn những yêu cầu sau đây:
– Tránh làm nhiễm bẩn đất, nước ngầm hoặc nước bề mặt.
– Lấy phân không cho tiếp xúc với súc vật và đặc biệt với người.
– Đề phòng những hơi thối hoát ra từ phân và đề phòng làm mất mỹ quan.
– Người ta có thể xử lý nước thải hay đổ chúng ra sông hoặc thu hồi chúng lại để
sử dụng sau này cung cấp lại thức ăn cho những lớp nước. Việc quản lý bể chứa, dòng
sông ngày càng phải được tăng cường để điều hoà chất thải bỏ cả về số lượng và chất
lượng. Có thể làm tăng độ trong sạch của nước bằng cách làm tăng lưu lượng của chúng

vào mùa khô hoặc trong một số trường hợp, làm thoáng khí trực tiếp bằng những phương
pháp thoáng khí tự nhiên.
Khi giải quyết các chất thải bỏ, cần phải chú ý tới quy hoạch khu dân cư và kỹ
nghệ mới theo trong những điều kiện đã được lựa chọn.
Để xử lý nước sinh hoạt, phải gạn những chất lắng đọng cặn, áp dụng những thiết
bị xử lý thật đầy đủ. Còn đối với những chất thải bỏ phân huỷ được, cần có bể xử lý hiếu
khí gồm các bể lọc chậm hoặc bùn hoạt tính. Những bể ổn định giúp ta xử lý chất thải
triệt để nên được áp dụng trước tiên cho các khu tập thể. Trường hợp nước thu nhận ít có
khả năng hoà tan hoặc cần xử dụng lại, cần phải có giai đoạn xử lý thứ ba. Chính bản
chất những chất chất thải bỏ tuỳ theo từng nơi, chi phối hệ thống xử lý được lựa chọn.
Những chất ô nhiễm có thể xếp thành 4 bậc lớn như sau:
– Chất rắn lơ lửng
– Hợp chất hữu cơ hoà tan
– Hợp chất khoáng hoà tan
– Chất dinh dưỡng thực vật đồng hoá được như đạm, phôtpho.
6. 2. Tập trung, vận chuyển và xử lý chất thải.
Những chất thải rắn bỏ gồm có rác nội trợ, những phế liệu trong công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp. Số lượng những chất này tăng lên trên toàn thế giới. Riêng
những chất thải bỏ đô thị chiếm khoảng 600 kg cho 1 người dân/năm và ít nhất là 700 kg
ở những nước có nền công nghiệp phát triển, mức tăng lên nhịp nhàng từ 1 – 2% hàng
năm dù tỷ trọng rác nội trợ có giảm thì thể tích thông thường của chúng vẫn đạt tới 5m
3
cho 1 người dân/năm. Những số liệu trên được tính không kể tới những chất thải bỏ rắn
xuất phát từ nông nghiệp và công nghiệp và không kể tới những phế liệu trong xử lý nước
thải.
Do tập trung vào đào thải trong những điều kiện mất vệ sinh, những chất thải bỏ
rắn sinh ra nguy cơ nghiêm trọng cho sức khoẻ, trước nhất chúng làm thuận lợi cho sự
phát triển ruồi, muỗi, các loài gặm nhấm, những véc tơ truyền bệnh khác nhau. Ngoài ra
chúng còn góp phần vào làm ô nhiễm nước, không khí, đất, làm cho đất mất giá trị, tạo
nên mối nguy cơ chung và làm tổn hại đến môi trường bao quanh.

Cách giải quyết tốt nhất là chuyển ra xa và nhanh chóng những chất thải bỏ này
bằng hệ thống thu dọn và xử lý chúng thích đáng trước khi khử hoàn toàn hay sử dụng
lại.
Kết luận
1. Tóm lại, đất là một thành phần của hệ sinh thái hoàn chỉnh, trên đó người ta
khai thác từ đất các yếu tố vô cơ, để tổng hợp thành các chất dinh dưỡng của cây trồng.
Chúng ta thường xuyên tác động đến đất và tác động đó thường là tiêu cực, nên phải bảo
vệ đất khỏi bị huỷ hoại nghiêm trọng cũng như khỏi bị ô nhiễm bởi những chất thải bỏ
rắn và lỏng mà các sinh vật thải ra trên mặt đất càng ngày càng nhiều, nó làm đảo lộn các
chu trình sinh quyển lớn dẫn tới sự mất cân bằng của hệ sinh thái trên mặt đất.
2. Trước đây và hiện nay ở nông thôn có loại hố xí 2 ngăn ủ phân theo phương
pháp kị khí. Trong tương lai rất gần, khi nông thôn của chúng ta được cơ giới hoá và hiện
đại hoá, ta cũng phải nghĩ tới những loại hố xí bán tự hoại và tự hoại như ở các thành phố
nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, vấn đề sử dụng phân hoá học trong nông nghiệp, vấn đề
sử dụng các thuốc trừ sâu sẽ làm ô nhiễm đất về mặt hoá học mà ta cần phải có những
biện pháp ngăn ngừa ngay từ bước đầu. Cần phải cải tiến phương pháp vận chuyển, bảo
quản, sử dụng phân bón trong thời gian thích hợp, thực hiện các biện pháp kỹ thuật nông
nghiệp, sử dụng tối đa các loại phân bón cho cây trồng. Ở các thành phố và khu công
nghiệp, cần phải nghĩ tới những công trình làm sạch nước thải vệ sinh cũng như những
biện pháp xử lý chất thải rắn, sử dụng lại những bã thải và những phế liệu nhằm chống
lãng phí nguyên liệu và giảm bớt chi phí chống ô nhiễm.
Câu hỏi:
1. Nêu những đặc điểm vệ sinh và vai trò của đất đối với môi trường sinh thái và sức
khoẻ cộng đồng?
2. Hãy trình bày nguyên nhân và các nguồn gây ô nhiễm đất?
3. Hãy trình bày các tiêu chuẩn đánh giá đất bị ô nhiễm?
4. Hãy phân tích tác động của ô nhiễm đất tới sức khoẻ cộng đồng?
5. Hãy nêu nguyên tắc cơ bản phòng chống ô nhiễm đất?
94,8 – 98,6 % tỷ trọng phân chia như sau : – Oxy 49,13 % – Silic 26,00 % – Nhôm 7,45 % – Sắt 4,20 % – Canxi3, 25 % – Natri 2,40 % – Magie 2,35 % – Kẽm 0,02 % Các nguyên tố còn lại : N, Bo, Cu, Co, K, Ti, C, P. chiếm 5,20 %. Tuy nhiên, sựphân bố những nguyên tố hoá học không đồng đều và rất ít ở hạng đơn chất ( thường ở dạnghợp chất, pha tạp ) cùng những thành phần hữu cơ khác tạo ra những chất sống trong những quátrình trao đổi chất. 2. 1. 2. Các chất khoáng : Các phức tạp link của những nguyên tố hoá học vô cơ và hữu cơ tạo ra sự đadạng thành phần khoáng trong đất. Ngày nay, người ta đã biết rõ có khoảng chừng 13.000 dạngquặng và muối khoáng. Dựa vào thành phần hoá học, người ta chia làm 5 loại chính sau : – Các chất đơn thuần : là những sắt kẽm kim loại và quặng sắt kẽm kim loại. – Quặng hỗn hợp dạng Sulfit. – Các hợp chất oxi hoá như oxyt, hydroxyt, Silicat. – Các loại muối. – Các hợp chất hữu cơ : Dầu mỏ, khí tự nhiên2. 1. 3. Nước trong đất : Trái đất có chứa lượng nước rất lớn, khoảng chừng 2,46 triệu km. Trong đó 56 % ở trênbề mặt biển, sông hồ, 42 % nước ở trong lòng đất và 2 % ở dạng hơi nước trong khôngkhí. Nhưng lượng nước con người hoàn toàn có thể khai thác, sử dụng được rất ít chỉ khoảng chừng 2 – 4 %. Nước ở trong đất tham gia vào quy trình tạo vòng tuần hoàn của nước trong tựnhiên : Ở trong quốc gia được chia làm 2 phần chính. Nước ngầm, trong những mạch ngầmtrong lòng đất và nước trong cấu trúc đất ; nước ở trong đất, biểu lộ nhiệt độ của đất, tồntại ở dạng là : – Nước link gắn với những thành phần đất, không có năng lực di dời và câycối không sử dụng được loại nước này. – Nước trọng tải : nằm trong những khoảng chừng hổng của những thành phần đất và theo trọnglực thấm sâu xuống những lớp dưới bổ xung cho nguồn nước ngầm. – Nước dạng mao dẫn, chúng nằm trong những lỗ như li ti của thành phần đất, không chịutác động của trọng tải mà hoạt động nhờ lực mao dẫn. Hệ rễ thực vật sử dụng dạngnước này cùng với những chất dinh dưỡng từ đất. 2. 1. 4. Không khí : Không khí có trong đất bộc lộ độ thoáng của đất. Trong đất tiếp tục có sựtrao đổi không khí ở lớp đất trên mặt phẳng, còn gọi là “ sự hô hấp của đất ”. Không khí trongđất được sinh ra trong quy trình phân huỷ vật chất bởi những phản ứng hoá học, hay phân huỷcủa vi sinh vật. Thành phần không khí trong lòng đất rất khác nhau phụ thuộc vào vào nhiệt độ, thành phần cơ học và cấu trúc của đất cũng như hoạt động giải trí của hệ sinh vật hoại sinh trongđất. Thông thường, thành phần khí trong đất theo tỷ suất % : Nitơ 78, oxy 21, argon 0,9, Cacbonic 0,03 và rất khác so với thành phần không khí trên mặt phẳng toàn cầu. Các phản ứng phân huỷ không khí xảy ra ở dưới dạng những lớp đất sâu, khi lượngoxy trong đất dưới 5,5 cm / kg đất ( tương tự 2,5 – 5 % ). 2. 1. 5. Sinh vật : Hệ sinh vật trong đất gồm có thảm thực vật, những nguyên sinh động vật và hệ visinh vật hoại sinh. – Thảm thực vật sử dụng nguồn nguồn năng lượng mặt trời, COvà HO muối khoángtạo nên chất hữu cơ và liên tục đưa vào quy trình tuần hoàn vật chất, nguồn năng lượng. Người tatính rằng, 1 năm trong quy trình sống của thảm thực vật trên mặt phẳng toàn cầu tạo ra 232,5 tỷtấn chất hữu cơ và chúng đã sử dụng 90,1 tỷ tấn Cácbon, 5,3 tỷ tấn Nitơ, 20 tỷ tấn muốikhoáng những loại ( K, Ca, Mg, P. ) số còn lại nước trong đất. Nhờ tăng trưởng hệ rễ của thực vật tạo cho đất tơi xốp, trao đổi chất, đổi khác cácthành phần khoáng sẽ giúp cho hệ vi sinh vật trong đất tăng trưởng. Như vậy, thảm thực vậtcó ích lợi rất lớn cho môi trường tự nhiên : tạo dòng không khí, hấp thu bụi, cặn không khí, làmsạch đất, biến hóa nhiệt độ, nhiệt độ của đất, không khí. – Hệ vi sinh vật trong đất : có tính năng bài tiết những men khác nhau thôi thúc quátrình phân huỷ vật chất trong đất qua đó chúng tạo nên những chất dinh dưỡng cho thực vậtphát triển. Có những nhóm vi sinh vật : vi trùng hoại sinh hiếm khí, kỵ khí, nấm, proteus vàcác nguyên sinh động vật ( ví dụ giun đất ). Số lượng vi sinh vật trong đất rất lớn ; nếu tính ở 25 cm lớp mặt phẳng có tới 5 – 7 tấn / ha. 2. 2. Các hoạt động giải trí thông thường của đất : Đất là thành phần thiên nhiên và môi trường đặc biệt quan trọng của hệ sinh thái, trong nó gồm có những yếutố vô sinh và hữu sinh. Bình thường ở một vùng nhất định, hệ sinh thái ở vùng đó pháttriển cực thịnh, không thay đổi và cân đối ( khi không có tác đọng nào của con người ). Tại đótrong đất và trong hệ sinh thái hoang dã này có diễn ra hoạt động giải trí thông thường sao cho sựchuyển hoá động vật chất ở vào quy trình khép kín, cũng như vòng tuần hoàn năng lượngcũng được khép kín. Ví dụ : ở trong đất những chất hữu cơ ( từ lá cây, cây chết, chất thải, động vật hoang dã, xácđộng vật chết ) được những vi sinh vật kỵ khí và hiếu khí phân huỷ, ( cùng tham gia có cácnguyên sinh động vật nấm men ) tạo ra những chất dinh dưỡng dạng muối vô cơ. Thực vậtsống trên đất đó sử dụng những chất dinh dưỡng sẵn có trong đất do vật phân huỷ tạo ra cùngvới quy trình quang hợp tạo ra chất hữu cơ đặc trưng cho chúng giúp cho cây sinh trưởngphát triển. Lúc đó, vật sản xuất ( cây thực vật ) được động vật hoang dã ăn thực vật ( vật tiêu thụ ) vàtheo chuỗi thức ăn lại trở lại với đất nhờ vi sinh vật, nấm men ( vật phân huỷ ) trả lại môitrường. Như vậy, nhờ quy trình hoạt động giải trí của vi sinh vật hoại sinh, nấm men, những nguyênsinh động vật hoang dã khác mà vòng tuần hoàn vật chất khép kín. Và chính đất giúp cho hệ sinhthái cân đối không thay đổi. Đó là thực chất quá trình tự làm sạch của đất, nhờ đó mà môitrường trong sáng, sự sống tăng trưởng, ổn đinh. Khả năng tự làm sạch đất xảy ra nhanh haychậm, trọn vẹn hay không trọn vẹn nhờ vào vào điều kiện kèm theo khí hậu thời tiết, đặc thù, thành phần của đất, chính sách nước. Khi con người, qua lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất, lương thực nuôi sốngcho mình, đất được sử dụng như tài nguyên vô tận. Chính trong hoạt động giải trí sống đó, vô tìnhhay hữu ý con người trả lại vào đất những chất thải ngày càng nhiều với vô số lượng thànhphần và vượt quá năng lực tự làm sạch của đất và đất bị ô nhiễm. Đất sẽ tiềm ẩn trongnó những yếu tố ô nhiễm và ngược lại tác động ảnh hưởng tới sức khoẻ, bệnh tật cho con người. 3. Nguyên nhân và nguồn gây ô nhiễm đất. 3. 1. Khái niệm : Theo Hiến chương Châu Âu : “ Ô nhiễm môi trường tự nhiên là khi có những biến hóa tínhchất thành phần của môi trường tự nhiên ( đất, nước, không khí, thực phẩm ) vượt quá ngưỡng nàođó có tác động ảnh hưởng tới hoạt động giải trí thông thường của con người, sinh vật và thiên nhiên và môi trường sinhthái ”. Ô nhiễm đất là những đổi khác đặc thù, thành phần của đất, gây nên tác động ảnh hưởng cóhại tới sức khoẻ con người và môi trường sinh thái không chỉ ở hiện tại mà cả tương lailâu dài. 3. 2. Nguồn ô nhiễm đất : Cũng như những thành phần khác nhau của môi trường tự nhiên ( không khí, nước, thực phẩm ) ô nhiễm đất do nhiều nguyên do gây ra, mà nguyên do cơ bản, đất là nơi chứa đựngtất cả những chất thải loại và hoạt động giải trí sống của co người. – Về những tác nhân ô nhiễm, đất chia ra 3 nhóm tác nhân sau : + Các tác nhân lý học : là sự và lắng đọng bụi, chất ngọt ngào của ô nhiễm không khí, rửa trôi, ngọt ngào của nước, những chất phóng xạ. + Các tác nhân hoá học vô cơ hoặc hữu cơ ô nhiễm. + Các tác nhân sinh học như vi trùng, vi rút, bào tử nấm, những trứng kí sinh trùng. – Về nguồn gốc của những chất ô nhiễm, được chia ra 2 nguồn ô nhiễm lớn là do tựnhiên và do con người. 3. 2. 1. Các chất nhiễm bẩn từ tự nhiên : Vỏ toàn cầu có chứa nhiều chất khoáng tự nhiên mà nhiều chất trong đó có độc tínhcao. Phân tích đất tự nhiên, người ta xác lập được ở những vùng khác nhau có nhữngchất độc khác nhau và người ta cho rằng điều đó là do cấu trúc địa chất. Ví dụ, như cáckim loại : Hg, As, Cad, Ni Một nguyên do khác, được giả thiết rằng những hoá chất độc này tăngcao ở trong đất, do được bổ xung từ chất thải sản xuất công nghiệp tích tụ lại hoặc donhững dịch chuyển của cấu trúc vỏ toàn cầu gây ra : như động đất, núi lửa, cháy rừngNhững dịch chuyển của tự nhiên, đổi khác thời tiết khí hậu ; bão lụt, cuồng phong, hạn hán, triều cường góp thêm phần phân chia những chất ô nhiễm từ vùng này đến vùng khác. Vídụ người ta tìm thấy DDT, 666 ở trong đất, băng đá ở 2 vùng cực, nơi mà không có hoạtđộng sống của con người. 3. 2. 2. Nguồn ô nhiễm đất đa phần do hoạt động giải trí sống của con người : 3. . 2. 2. 1. Do chất thải hoạt động và sinh hoạt : Cách đây không lâu ô nhiễm đất hầu hết là do chất thải hoạt động và sinh hoạt của con người : rác, phân hữu cơ và phế thải hoạt động và sinh hoạt. Trong đó thành phần đa phần là những chất thải hữucơ và thường kèm theo nó là những vi sinh vật gây bệnh. Bình thường những chất thải hữu cơnày được quá trình tự làm sạch của đất phân huỷ. Khi lượng chất thải quá lớn ( sự tăng dânsố, nhu yếu ngày càng tăng ), vượt quá năng lực hoàn toàn có thể của đất hoặc không có thời hạn đểphân huỷ dẫn tới đất bị ô nhiễm chất hữu cơ, những mẫu sản phẩm phân huỷ trung gian của chấthữu cơ có Nitơ, Lưu huỳnh, Phốtpho. Ngoài ra, cùng với những chất thải hữu cơ là những vi trùng gây bệnh, trứng ký sinhtrùng và gây nên thực trạng lan tràn những bệnh nhiễm trùng đường ruột, hoại thư và những vikhuẩn kỵ khí khác. Thời gian sống sót của những vi sinh vật trong đất nhờ vào vào loại đất, thành phần của đất, thời tiết khí hậu, lượng chất hữu cơ và năng lực chịu đựng của chúngở môi trường tự nhiên. Ví dụ : những vi sinh vật tạo được vỏ, nha bào hay bào tử có năng lực sống sót ởtrong đất từ vài tháng tới vài năm. Ngày nay, ngoài thành phần chất hữu cơ, những vi trùng gây bệnh, trong rác thải, phế thải hoạt động và sinh hoạt còn có số lượng lớn những hợp chất hoá học và thành phần càng ngày càngđa dạng, như : + Vỏ vỏ hộp đóng gói : vỏ chai nhựa, thuỷ tinh, túi nilon, hộp sắt kẽm kim loại + Các chất tẩy rửa sát trùng : căn phòng nhà bếp, Tolet, bột giặt tẩy có cácchất hoạt tính mặt phẳng + Rác, nước thải của những bệnh viện, lò mổ có nhiều vi sinh vật gây bệnhCác loại chất thải này, ngày càng chiều trong phế thải của những khu dân cư đô thị đôngđúc, thành phố công nghiệp thiếu những khu công trình vệ sinh và sử lý không triệt để. 3. 2. 2. 2. Do chất thải sản xuất công nghiệp : Sự tăng trưởng nhanh gọn của nền sản xuất công nghiệp, mạng lưới hệ thống quản trị phếthải, nước thải sản xuất còn nơi lỏng, công nghệ tiên tiến sản xuất không đồng nhất, máy móc cũ, sửdụng phế thải trong tái sản xuất là nguyên do ô nhiễm nặng nề cho thiên nhiên và môi trường nóichung và ô nhiễm đất nói riêng. Nguyên nhân đó là : – Vấn đề sử dụng nước thải thành phố, khu công nghiệp trong nông nghiệpqua cánh đồngtưới, cánh đồng lọc và những khu dân cư xung quanh khu công nghiệp dẫn tới tích luỹ cácchất ô nhiễm khó phân huỷ trong đất. Qua hệ rễ thực vật, hoàn toàn có thể ngấm sâu lớp đất phíadưới, ảnh hưởng tác động trực tiếp tới chất lượng nước ngầm. Đồng thời gây ra những đổi khác quátrình phân huỷcủa hệ sinh vật hoại sinh trong đất làm thực trạng ô nhiễm đất trầm trọngthêm. Nhất là những chất hoá học độc, khi không được phân huỷ trọn vẹn mẫu sản phẩm trunggian của chúng có độc tính lớn hơn so với chất gốc. – Sự ngọt ngào những chất độc trong cặn bùn của nước thải sản xuất cũng là nguồn ô nhiễmquan trọng trong đất. Ví dụ : nước thải của xí nghiệp sản xuất chế biến quặng Chisô của Nhật Bản, làm ô nhiễm cadmi nặng nề đất của lưu vực sông Jinzu. – Rác thải phế thải của sản xuất, chôn lấp trong những bãi rác cũng là rủi ro tiềm ẩn rất lớn làm ônhiễm đất. Người ta đã phát hiện được xung quanh bãi rác, công nghiệp, xí nghiệp sản xuất có Hg, As, F, Cad và một số ít chất khác có nồng độ cao gấp 3-5 lần ở vùng chứng. Và những chấtnày trong thực phẩm cũng tăng gấp nhiều lần tiêu chuẩn được cho phép. Mà lúc bấy giờ, biện phápchôn lấp vẫn còn là cách giải quyết và xử lý rác, phế thải thông dụng ở nhiều nước. 3. 2. 2. 3. Chất thải từ sản xuất nông nghiệp : Phát triển nông nghiệp văn minh luôn đi kèm với sử dụng những chất bảo vệ thực vật, chất kích thích tăng trưởng, phân bón hoá học, chất hữu cơ, trụi lá. Trong những hoá chất nàycó nhiềuchất độc nguy hại, bền vững và kiên cố, không riêng gì sống sót ở ngay nơi sử dụng mà còn lanrộng đến vùng lân cận, kể cả xa hơn ( theo gió, dòng chảy ) gây ô nhiễm đất, nước, khôngkhí. Đặc biệt là những hoá chất bảo vệ thực vật nguồn gốc Clo hữu cơ ( DDT, hexacloran, heptaclo ) kể cả phốtpho hữu cơ ( mêtanphốtpho, clorophốtpho ). Có nghiên cứu và điều tra xác địnhđược Metanphốtpho sống sót rất lâu trong đất chua hoá ( tới 2 µg / kg đất ). Ngoài ra, những hóachất bảo vệ thực vật nguy khốn phải kể tới những hoá chất mà trong thành phần có những kimloại nặng như Hg, Cu, As, Pb và một số ít cacbonat. 3. 2. 2. 4. Các nguồn khác do con người : – Do giao thông vận tải vận tải đường bộ và phế thải giao thông vận tải. – Các khu nghĩa trang. – Do cuộc chiến tranh, với những vũ khí giết người hàng loạt ( ABC ). – Sự ngọt ngào những chất ô nhiễm từ không khí, nước bị ô nhiễm xuống đất. – Sự lưu chuyển những chất ô nhiểm trong hệ động thực vật trong quy trình vật chất tựnhiên tới đất ( qua xác động thực vật trong đất ). 4. Tác động ô nhiễm đất tới sức khỏe bệnh tật4. 1 Các tác nhân sinh học : Những tác nhân sinh học hoàn toàn có thể làm ô nhiểm đất và gây ra bệnh ở người đượcchia làm 4 nhóm : 4. 1. 1. Tác nhân truyền bệnh Người – Đất – Người : Trực khuẩn và nguyên sinh động vật đường ruột hoàn toàn có thể làm ô nhiễm đất do : – Những chiêu thức giải quyết và xử lý chất thải bỏ mất vệ sinh. – Sử dụng phân bón lấy từ những loại hố xí hay bùn trong nước hoạt động và sinh hoạt hoặc sửdụng cánh đồng lọc, cánh đồng tưới bằng nước thải hoạt động và sinh hoạt. Đất hoàn toàn có thể bị ô nhiễm trựckhuẩn lỵ, thương hàn, phẩy khuẩn hoặc amip. Tuy nhiên, những bệnh do những vi sinh vậtnày gây ra thường Viral bởi nước và truyền bệnh trực tiếp từ người này sang ngườikhác hoặc do thực phẩm. Ngoài ra, ruồi tiếp xúc với đất nhiễm bẩn bởi phân, sinh sản ởđó và truyền mầm bệnh. Trực khuẩn lỵ : Trực khuẩn lỵ chết tương đối nhanh trong phân tươi, nhưng saukhi tẩy uế phân thì chúng hoàn toàn có thể sống sót lâu nhờ có chất hữu cơ trong đất. Nó thường bịcác tia bức xạ mặt trời tàn phá. Người bị nhiễm khuẩn là do ăn phải rau quả bị đất làmnhiễm bẩn hay tiếp xúc với phân tươi. Trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn : Đất trồng là môi trường tự nhiên không thuậnlợi cho những loại vi trùng trên tăng trưởng. Các loại vi trùng này sẽ chết sau một thời gianrơi vào đất vì không cạnh tranh đối đầu được với những vi trùng hoại sinh ở đất. Song, tuỳ theomức độ nhiễm bẩn và loại đất ( nhiệt độ, nhiệt độ, dự trữ chất hữu cơ, pH, khuẩn lạc vikhuẩn đối kháng ) trực khuẩn thương hàn hoàn toàn có thể sống sót khá lâu ( từ 2 đến 4 tuần hoặchơn nữa ) trong đất. Cho nên vai trò dịch tễ học của đất trong bệnh thương hàn không thểphủ định trọn vẹn được. Phẩy khuẩn tả trong đất : Phẩy khuẩn tả sống sót ở trong đất không quá một tháng. Khả năng sống sót của nó chịu tác động ảnh hưởng của nhiều tác nhân. Đất bị nhiễm bẩn bởi phântươi, Các chất hữu cơ lê dài thời hạn sống sót của phẩy khuẩn tả từ 5 – 7 tháng. Khả năngsinh tồn của nó còn bị tác động ảnh hưởng bởi thành phần cơ bản của đất. Bên cạnh đó là hiệntượng đối kháng vi trùng và những nhân tó sinh học quyết định hành động. Truyền bệnh Người – Đất – Người còn do những loại ký sinh trùng ( giun sán ) : Kýsinh trùng được truyền qua đất hoặc trứng giun sán, ấu trùng của chúng sau thời hạn ủbệnh tương đối, trở thành tác nhân gây bệnh cho người. Quan trọng hơn cả là giun đũa, giun xoắn Necator americanua và giun móc. Hailoại giun sau cuối này chính là tác nhân gây bệnh giun móc. Còn giun lươn ít truyềnbệnh qua đất hơn. Những tiến trình tự do của giun sán Viral qua đất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Dựa vào nhu yếu đặc biệt quan trọng của quá trình này, mỗi loại có một hoá trị sinh thái xanh khá rộng, phụ thuộc vào vào yếu tố khí hậu. Song khoanh vùng phạm vi những điều kiện kèm theo thuận tiện nhất để chúng tồntại và tăng trưởng lại thu nhỏ lại và nhờ vào vào điều kiện kèm theo vi khí hậu hơn là đại khí hậu. Điều kiện thuận tiện cho mỗi loại nhờ vào vào lượng mưa, nhiệt độ không khí, thực vật, ánh sáng mặt trời, hoạt động không khí cũng như vào cấu trúc nhiệt độ của đất. ở nhữnglớp đất bị phủ tuyết, người ta thấy chứng giun đũa hoàn toàn có thể sống trong điều kiện kèm theo nhiệt độthấp. Tuy vậy, bệnh giun móc hầu hết Open ở những vùng nhiệt đới gió mùa ẩm. Bệnh lỵ đường ruột : Entamoeba dysenteria hoàn toàn có thể sống sót ở trong đất nhất là đất bịô nhiễm phân. Ở nơi nào xử lý phân chưa tốt, thường đất ở nơi đó có mang kénamip. Trong những hội chứng lỵ gặp vào mùa nóng ở những nước thuộc miền nhiệt đới gió mùa, ngoài nguyên do do những trực khuẩn lỵ, còn thấy cả Entamoeba dysenteria. Số ngườimang amip ở những nơi đang có dịch rất cao, tới 86 %. Còn ở những nơi không có dịch, tỷ suất trên giảm thấp còn 1 % ( Tỷ lệ này gồm có thành viên bào nang và cả thể hoạt động giải trí ). Thói quen mất vệ sinh luôn luôn góp thêm phần vào việc duy trì chu kỳ luân hồi nhiễm khuẩn bởi cáctác nhân gây bệnh truyền qua đất. Các vi rút đường ruột : Trong đất người ta tìm thấy vi rút bại liệt ECHO vàCoxsackie ( chủng ECHOvà ECHO ) gây viêm màng não và sốt phát ban, viêm cơ tim, viêm não trẻ sơ sinh. Virút đường ruột chịu đựng bền vững và kiên cố những tác nhân lý – hoá và sốngdai dẳng ở ngoại cảnh. Ta lại biết, tuỳ theo những loại đất mà mức hấp thụ virút đường ruộtcó khác nhau. Đất sét pha cát lôi cuốn nhiều những virút đường ruột hơn cả. Đất còn hútnhiều hơn những virút đã được làm giảm độc tính và những virút ấy hoàn toàn có thể tách ra khỏi đất mộtcách khá thuận tiện để xâm nhập vào khung hình mà gây bệnh. Khi tách ra như vậy, độc lực củanó vẫn giữ nguyên. Đối với những mẫu đất có pH trung tính hay hơi axít virút dễ tách hơn. Trong thiên nhiên và môi trường kiềm, virút được nuôi cấy dễ tăng trưởng hơn trong thiên nhiên và môi trường axít. Yếutố nhiệt độ so với virút có ý nghĩa quyết định hành động. Ở những xứ lạnh, virút đường ruột lan trànnhiều hơn ở những nước xứ nóng. ở đấy virút sống từ 25-170 ngày, virút tăng trưởng mạnh ở 3-10 C. Độ khô hanh hao của đất ảnh hưởng tác động đến sự tăng trưởng của chúng. Virút chỉ sống được15 ngày trong đất cát khô và ECHOchỉ sống được 5 ngày. Nếu nhiệt độ tăng từ 10 % trởlên, virút sẽ sống được 60 ngày và ECHOsống được 90 ngày. Đối với rau quả tiếp xúcvới đất từ 18 – 22C, sức sống của virút đường ruột ở rau bị giảm sút nhanh, trong khi ở tủlạnh virút sống tới 68 ngày. Thời gian sống sót của virút ở đất lâu hơn ở rau, tính năng củangoại cảnh ( nhiệt độ, nhiệt độ, pH của đất ) là điều kiện kèm theo để virút đường ruột sống sót. Phânngười chứa rất nhiều virút. Có những mẫu phân pha loãng tới 6000 lần mà sau 4 tuần vẫncòn tìm thấy virút đường ruột, đó là phân của người mắc bệnh. 5.1.2. Tác nhân truyền bệnh Vật nuôi – Đất – Người. Trong số bệnh của động vật hoang dã truyền sang người, đất hoàn toàn có thể giữ vai trò chủ yếutruyền tác nhân nhiễm khuẩn từ vật nuôi sang người. Bệnh xoắn khuẩn vàng da ( bệnh do Leptospira ) : Leptospira gây bệnh đồng thờicho vật nuôi và cho người trong toàn bộ mọi nơi trên quốc tế. Nó bộc lộ quy luật dịch tễhọc tương tự như như quy luật của nhiều bệnh động vật hoang dã khác đứng về ý nghĩa truyền từ vậtnuôi sang vật nuôi và từ vật nuôi sang người. Chủ yếu vẫn là ở trâu bò, còn ở lợn chưađược xác lập rõ ràng. Trong 1 số ít vùng, dê, cừu, ngựa cũng bị nhiễm khuẩn. Những loàigặm nhấm như chuột cống, chuột chù, chuột đồng thường mang mầm bệnh. Sự phân tánnhững loài xuắn khuẩn Leptospira tương quan rõ ràng với điều kiện kèm theo của môi trường tự nhiên nhất làđiều kiện tiếp xúc với vật nuôi mắc bệnh, với nước hoặc bùn và người. Những vật nuôimang bệnh thường đào thải qua nước tiểu khoảng chừng 100 triệu Leptospira trong 1 ml. Nếunước tiểu được trộn lẫn với nước hoặc bùn có pH trung tính hay kiềm nhẹ thì những xuắnkhuẩn hoàn toàn có thể sống tới hàng tuần. Những người lao động nông nghiệp thường mắc bệnhnày vì đặc biệt quan trọng phải tiếp xúc phải tiếp xúc với những cánh đông tưới và những đồngruộng trồng trọt, những vùng trồng mía. Trực khuẩn than : Người mắc bệnh than ít gặp. Tuy vậy, bệnh than vẫn giữ mộtvai trò quan trọng cả ở bệnh của người cũng như cả ở những tổn thất về kinh tế tài chính trong lĩnhvực chăn nuôi. Những mầm trực khuẩn than rất đề kháng với những tác nhân hoá học vàvới những điều kiện kèm theo bất thuận lợi của môi trường tự nhiên bao quanh. Chúng hoàn toàn có thể sống hàngnăm trong đất và trong những tổ chức triển khai của động vật hoang dã như da, lông ngựa, lông cừu. Khimầm bệnh lưu trú trong vật nuôi ở một vùng nào đó, ổ gây bệnh sẽ được phát sinh đối vớicác động vật hoang dã do năng lực thường trú của mầm bệnh trong đất. Bệnh sốt Q. : Bệnh sốt Q được gây ra bởi Rickettsia Coxiella Burnetii trở thànhquan trọng so với sức khoẻ của nhân dân trong hầu hết những nước trên quốc tế. Rickettsiacó thể xuất hiện trong đất và bụi, ở nơi mà chúng hoàn toàn có thể sống sót trong những thời kỳ dàinhờ ở sức đề kháng can đảm và mạnh mẽ của chúng với điều kiện kèm theo khô khô hanh. Ở những miền có nhữngđàn chim sinh đẻ, trong những khoảng chừng đất rào kín, những mầm bệnh Rickettsia trong bụi củađất bỗng trở thành can đảm và mạnh mẽ khi đất bị che mất ánh sáng Mặt Trời. Ở miền Bắc nước ta, có 34 loài và phân loài Haemaphysalia – một giống có nhiều loài nhất trong họ ve cứngIxodidae ở Nước Ta. Các loài Haemaphysalia Koch phân bổ hầu hết khắp những tỉnh miềnnúi và trung du nước ta. Ngoài ra ở những lâm trường, nông trường và công trường thi công trong những khu rừngnúi, đêm hôm những thú hoang hay đến gần nhà người ở, do đó ve ở những thú rừng dễ liênhệ được với người. Sau khi biến thái, những con ve này lại bám vào thú rừng hoặc bámvào trâu bò trên đồng cỏ, hoặc bám vào cây xanh, những bụi cây gần lối đi, chờ bám vào ngườihay những vật chủ khác. Như vậy, ve đã xây dựng một cái cầu liên hệ giữa những ổ Rickettsia, sốt phát ban, sốt phát ban nhiệt đới gió mùa Trên những động vật hoang dã hoang dại truyền cho người, giasúc và những vật nuôi. Bệnh viêm da do giun. Bệnh viêm da này thường gặp ở những nơi có nhiều mèo, chó nhiễm Ankylostoma brazilienne. Người bị nhiễm bệnh do sự sâm nhập vào da củanhững ấu trùng giun móc di động từ đất lên, xuyên qua da người và gây viêm da ở nhiềumức độ khác nhau. Nhiễm bệnh này thường ở những người phải tiếp xúc với chất phónguế của vật nuôi thải ra đặc biệt quan trọng ở những trẻ nhỏ. Rõ ràng là người ta hoàn toàn có thể làm đất sạchnhững mầm bệnh này ở nhiều nơi ( Hội nghị hỗn hợp FAO / OMS về bệnh động vật hoang dã ). Những bệnh khác. Những bệnh khác theo phương pháp Vật nuôi – Đất – Người cầnđược kể tới là những bệnh khuẩn Tôxocara. Chính là bệnh do Tôxocara canis, bệnhListeriosis, bệnh Salmonella và bệnh khuẩn Tulare. Mặc dù phần nhiều những bệnh khuẩnấy được truyền trước hết do tiếp xúc trực tiếp giữa vật nuôi và ngươì hoặc do ăn phảithức ăn bị nhiễm khuẩn bởi đất phóng uế của vật nuôi. Ta cần phải nói rằng đất cũng cóthể giữ một vai trò quan trọng trong truyền bệnh này. Cl. Periringens : có trong phân người và động vật hoang dã. Tuỳ theo số lượng phân tướibón vào đất mà đất bị nhiễm bẩn ít hay nhiều. Do điều kiện kèm theo của đất trồng Cl. Periringens không có năng lực sống và bị chết dần. ở rau quả, xác người và động vậtcũng gặp vi trùng này. Còn phải kể tới Cl. Oedematicua từ ruột động vật hoang dã theo phân tươitruyền ra đất. Trong đất trồng trọt hay gặp Cl. Oedematicua, nhưng ít hơn Cl. Periringens. Cl. Septicus thường sống ở trong ruột động vật hoang dã ăn cỏ. Trong những loại đất trồng trọt, loại vikhuẩn này ít được gặp này là Cl. Periringens. Khi tìm thấy Cl. Septicus, hoàn toàn có thể nói đất bịnhiễm bẩn bởi phân tươi. Các vi rút lây truyền cho người từ súc vật có hai nhóm : Nhóm A : gồm những vi rút ưa da, gây bệnh ở da động vật hoang dã ( virut gây bệnh lở mồm, long móng, viêm họng có mụn nước của ngựa, ngoại ban có mụn nước của lợn, chốc loét, truyền nhiễm của cừu ). Nhóm B : gồm vi rút dại, virut giả dại, virut Côxackia5. 1. 3. Tác nhân truyền bệnh Đất – NgườiCác bệnh mấm : Hầu hết những bệnh nấm nặng ở da ăn sâu vào trong hay lan toànthân đều được gây ra do nấm hoặc xạ khuẩn, ( Actinomicetes ). Chúng tăng trưởng bìnhthường như những vi trùng hoại sinh ở trong đất hay cỏ khi những sợi nấm khác nhauxâm nhập vào da qua vết thương. Giống như bệnh do Blastomices máu và những bệnh nấmkhác, những u nấm hay gặp trước hết ở những người đi chân đất hoặc đi giày dép, mặcquần áo không đủ bảo vệ da. Chúng hoàn toàn có thể gây tàn tật suốt đời không chữa được, có khiphải mổ cắt chi bị nhiễm bệnh đó đi. Bệnh nấm Coccidioides do nấm Coccidioides imitisgây ra thường được gặp ở những vùng khô hạn hay bán khô hạn. Ở tầng trên của đất tớiđộ sâu vài phân hay gần những hang động vật gặm nhấm. Trong những tháng mùa hạnắng gắt, thảm thực vật khô đi và chết, gió tràn tới, cuốn bụi mặt đất, cuốn bào tử nấmvào không khí. Người ta nhắc tới những loại nấm mọc trên mặt đất như địa y có sợi lông ( Geotrichosis ), mốc lá cây hay quả thối ( Phycomycetosis ), nấm trong đất giàu phân gà, phân chim, phân dơi ( Histoplasmosis ), nấm trong những tổ chim và trong phân chim bồcâu ( Cryptococcosis ), nấm trong rau cỏ thối úa ( aspergillosis ), nấm trên gỗ cây vừa bịchặt hoặc ở đó bị xâm nhiễm nước ( Sporotrichosis ). Tất cả đều theo chính sách những bào tửnấm cùng bụi bị gió cuốn vào không trung gây bệnh cho người. Tuy vậy, sinh thái xanh họccủa hầu hết những mầm sinh vật tự do có hiệu lực hiện hành gây bệnh cho người và bệnh sinh củanhững bệnh do chúng gây ra còn ít được biết rõ. Nhất là y học đến nay còn chưa chú ýnhiều đến những bệnh nấm. Song yếu tố này đã được đặt ra trên khoanh vùng phạm vi toàn quốc tế vì lýdo gây rủi ro tiềm ẩn bệnh tật của nấm trong điều kiện kèm theo lao động sản xuất của công nhân, nôngdân làm đất và trồng trọt. Đất trồng trọt là nguồn chứa tự nhiên của nấm độc họFusarium, Penicillium. Độc tố của nấm Stachibotris alternans gây viêm và hoại tử trêntoàn bộ đường tiêu hoá của ngựa. Các gia súc nhạy cảm với nấm Dendrodochium. Cầnphòng ngừa sự tăng trưởng những nấm có hại trên cây cối trong thời kỳ sinh trưởng và ở cảtrên thức ăn cho người và gia súc trong thời kỳ dữ gìn và bảo vệ. Uốn ván : Uốn ván là một bệnh nặng của người do độc tố của trực khuẩn Nicolairegây ra. Chúng tăng trưởng kỵ khí ở những vết thương nhiễm khuẩn. Mầm bệnh này gặp ởkhắp quốc tế, mặc dầu ở thời đại tất cả chúng ta bệnh này tương đối ít xảy ra. Bệnh thường gặpở những người làm nông nghiệp, hầu hết do những vết thương xây xát, bị nhiễm khuẩntiếp xúc với đất bón, phân. Tác nhân nhiễm khuẩn Clostridium tetani được phóng ra donhững súc vật bị nhiễm khuẩn đặc biệt quan trọng là ngựa. Nguồn gây nhiễm tức thời hoàn toàn có thể là đất, bụi hoặc những chất thải của súc vật và người. Có thể nói rằng vi trùng uốn ván gặp khá nhiều trong đất canh tác cũng như ( đôilúc ) trong đất bỏ phí. Càng lên cao ( vùng núi ) càng ít gặp vi trùng này. Đất bón phânchuồng chứa nhiều vi trùng này. Vi khuẩn uốn ván phân bổ rất không đều trong những loạiđất khác nhau. Nó hoàn toàn có thể duy trì sức sống vài năm trong đất trồng trọt, nhưng có ít khảnăng sinh sản ở những lớp đất dưới. Độc tố của vi trùng này bị phân hủy khá nhanh bởi cácvi khuẩn hiếu khí trong những lớp đất trồng thoáng. Vi khuẩn này không có năng lực sinhđộc tố và không có mối đe dọa rõ ràng khi nó ở trong ruột người. Nếu trong ruột có tổn thươnghoại tử và có những vi trùng gây hoại thư thì Cl. tetani sẽ sinh sản nhanh. Tóm lại, ngườita thường gặp Cl. tetani trong ruột người và động vật hoang dã, nhưng ít gặp trong đất canh tác. Song vi trùng này sống sót khá lâu trong đất bón phân tươi. Bệnh ngộ độc thịt : ( do Clostridium Botulium ) : Bệnh ngộ độc thịt là một bệnh ngộđộc thường gây chết người do những độc tố của Clostridium Botulium gây ra. Nguồnmầm bệnh là đất hoặc từ ruột súc vật bị bệnh. Độc tố được tạo nên do sự tăng trưởng kỵ khícủa những nha bào trong thức ăn và gây ngộ độc tức thời. Bệnh thường xảy ra do ăn phải đồhộp kỹ nghệ không được nấu trước hay những thực phẩm được sấy, tiệt trùng chưa thậttốt. Ngay từ lúc khởi đầu được lưu lại, thực phẩm đã bị những nha bào chất lượng. Botalinonrải rác trên mặt đất truyền vào. Clostridium Botulium có 5 loại A, B, C, D, E trong đóloại A, B thường hay gặp nhất. Người và động vật hoang dã đều nhạy cảm với loại này. Nha bàocủa chúng rải rác trong đất, ít gặp loại này ở miền đất ôn đới khí hậu lạnh trong khi ở đấtxứ nóng gặp nhiều hơn. Thành phần cơ học của hầu hết đất bị nhiễm là loại đất sét. Cl. Botulium có nhiều ở đất canh tác, trồng trọt, kiềm, trung tính và ở một vài loại độngvật trong đất, Cl. Botulium sinh sản mạnh và làm Viral vi trùng này trong đất. Giunđất là nơi dự trữ Cl. Botulium. Xác những sinh vật ở đất cũng là nơi tụ tập những vi trùng này. Trong ruột người và động vật hoang dã máu nóng, Cl. Botulium ở dạng hoại sinh. Chính vì vậy màngười, động vật hoang dã máu nóng, chim hoang dại, những loài gặm nhấm gieo rắc trong thiên nhiênmầm bệnh này. Trong những mẫu rau quả, trong thực phẩm lỏng, vi trùng này gặp nhiềuhơn. Trong bùn ao hồ cũng gặp Cl. Botulium, do đó cá cũng bị vi trùng này làm nhiễmbệnh. 5. 2. Nhiễm bẩn bởi những tác nhân hoá học và phóng xạ5. 2. 1. Phân bón hoá học và hoá chất trừ sâu : Phân bón được dùng với những mục tiêu canh tác, làm tăng hiệu suất mùa màng, nhưng mặt trái của nó là làm ô nhiễm đất do độ không trong sáng của nó. Những phân bón và chất kích thích sinh trưởng thường không bền vững và kiên cố và nhữngvà sinh vật của đất hoàn toàn có thể chuyển hoá chúng. Cũng cho nên vì thế mà ngay những loại sản phẩm Clocủa phênol ( ví dụ : những axít policlorophênoxiaxetic mà người ta dùng như những chấtdiệt cỏ ) đã được chuyển hoá bởi nhiếu chủng trực khuẩn thích nghi với thiên nhiên và môi trường mớivà được sử dụng ngay làm nguồn dinh dưỡng cho những loại trực khuẩn đó. Quá trình này cũng được thực nghiệm cho chất dinitro-ocresol và những hợp chấtcùng họ. Các vi trùng và nấm mốc của đất có nhiều hơn của nước, ngay cả khi nhữngdòng nước này bị những chất hữu cơ làm ô nhiễm. Có thể trọn vẹn nói được rằng, những chất hoá học càng lâu ngày không tiếp xúc với đất thì ngược lại càng nhanh chóngbị huỷ bởi hoạt động giải trí của vi trùng đất. Nếu bón cho đất những mẫu sản phẩm hoá học nhưphênol, trực khuẩn trong đất tăng trưởng tăng lên và nhanh hơn trên những phênol nguồngốc tự nhiên. Nhiều thí nghiệm chứng tỏ rằng, những trực khuẩn đất có nhiều lúc đềkháng với cả những chất diệt khuẩn mới. Những men chuyển hoá, chịu sự đổi khác cầnthiết để khử độc những hợp chất và trở thành men thích nghi. Cơ chế này làm tiêu biến đimất những mẫu sản phẩm hoá học và lắng đọng trên đất, nhất là trên đất trồng trọt hàng nămđược phun thuốc diệt cỏ trừ sâu để ngăn cản sự xâm lấn của cỏ dại. Chỉ có cách dùngnhững loại sản phẩm hoá học dễ bị tiến công và bị phân huỷ bởi những mầm vi sinh vậtthường xuyên chứa trong đất là lý tưởng nhất. Những hợp chất của chì, thuỷ ngân ( nhữnghợp chất thuỷ ngân hầu hết được dùng là những hợp chất hữu cơ sắt kẽm kim loại ) và những muốicủa axít asenic hợp thành trong đất những chất cặn lắng vững chắc và truyền vào cây trồngnhững chất ô nhiễm : chì, thuỷ ngân và asen. Khuynh hướng lúc bấy giờ của những nhà phân phối thuốc trừ sâu dùng trong nôngnghiệp là thiết kế xây dựng nên những hợp chất phân huỷ nhanh, cũng như rút ngắn lại tối thiểuthời gian tiếp xúc của những chất cặn thuốc trừ sâu và những chất phân huỷ của chúngđối với cây cối dùng làm lương thực cho người và súc vật. Tuy vậy, người ta còn biết rất ít về những mẫu sản phẩm bị phân huỷ của rất nhiều hợpchất hoá học. Trong 1 số ít trường hợp, những chất gây độc mới hoàn toàn có thể tự tạo nên trongđất ngay cả khi người ta không tìm thấy một dấu vết nào của những chất ô nhiễm khởi đầu. Trong những chất trừ cỏ diệt sâu hữu cơ hiện đang được sử dụng, đề kháng được sự phânhuỷ của vi sinh vật và không bị biến thành loại sản phẩm trơ sau cuối, phải kể số 1 đếnnhững hidrocacbua chứa clo như DDT, lindan Andrin, diendrin. Cặn của những chất diệtcỏ trừ sâu này tỏ ra bền vững và kiên cố, hay bị hấp thu vào những cấu tử của đất cùng với những chấtkhoáng và những chất hữu cơ bảo phủ. Những chất hoá học này hoàn toàn có thể làm ô nhiễm câytrồng và rễ cây của chúng bị tiêu đi trong đất được phun thuốc trừ sâu. Cơ chế tác dụng của thuốc trừ sâu lên sinh vật chính là làm tê liệt năng lực dẫntruyền những xung động thần kinh, dẫn đến hiện tượng kỳ lạ co giật rồi làm sinh vật chết. Có 3 loại nhóm thuốc trừ sâu diệt cỏ ( bảng 1 ) chúng đều dễ tan trong tổ chức triển khai mô. Nhóm 1 khóbị phân huỷ, ít độc so với động vật hoang dã, còn nhóm 1 và 3 tương đối dễ bị phân huỷ hơn, nhưng rất độc so với người và động vật hoang dã. Bảng 1N hóm 1C lo + hiđrat cacbonNhóm 2L ân hữu cơNhóm 3C acbonatDDT, DDD, DDEAnđrinDienđrin666Clo đanLinđanMetyl ParathionParathionDiazinonFenthionTEPPAzin photmêtylCacbamylZectranDDT thường tích tụ trong đất và không khí, sau đó rơi xuống biển và được sinhvật hấp thụ, gây ô nhiễm thực phẩm. Cần chú ý quan tâm tới nồng độ sinh học là hàm lượng DDTchứa trong khung hình những loài sinh vật có khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ dinh dưỡng củachúng. Số lượng DDT thường bài tiết ra ít so với mức hấp thu vào. Số còn lại này đượcgiữ trong tổ chức triển khai mỡ của những loài sinh vật. Nồng độ DDT thấp trong nước, nhưng lại tănglên rất cao gấp nghìn lần trong liên chuỗi thực phẩm. Có thể nói rằng nhờ sử dụng cácloại hoá chất diệt côn trùng nhỏ, hàng triệu người đã được cứu sống khỏi bệnh dịch, năng suấtmùa màng có tăng lên. Song vì sử dụng thoáng rộng với quy mô lớn những thuốc trừ sâu diệt cỏtrên đã gây ô nhiễm môi trường tự nhiên sống, làm rối loạn phần nào cân đối sinh thái xanh, tiêu diệtmất nhiều loài sinh vật không phải là đối tượng người tiêu dùng, gây tác động ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Bên cạnh đó còn làm cho những loài sâu hại từ từ có sức đề kháng với những thuốc trừ sâudiệt cỏ. Do đó để có Kết luận đúng chuẩn về mối đe dọa của thuốc diệt cỏ, trừ sâu, cần phảinghiên cứu sâu sự di dời của chúng ở môi trường tự nhiên và quy trình tích luỹ của chúngtrong đất sự biến hóa trong nước và sự xâm nhập vào những loại sản phẩm có nguồn gốc thựcvật. 5. 2. 2. Ô nhiễm bởi những chất thải bỏ công nghiệp rắn. Những chất tẩy rửa của những chất thải bỏ công nghiệp rắn hoàn toàn có thể chứa nhữngsản phẩm hoá học ô nhiễm ở dạng dung dịch. Trong vạn vật thiên nhiên những chất này có thểđược tích đọng lại và bằng những chính sách khác nhau gây ô nhiễm cho một liên chuỗi thựcphẩm của người. – Asen : Theo những tác giả Liên Xô, độ đậm As xung quanh xí nghiệp sản xuất cao gấp 4 – 5 lần so với ở khoảng cách nhà máy sản xuất 500 m, gấp 6 lần so với khoảng cách 2500 m. Sau khi hấp thu, As sẽ được đào thải qua đường sữa. Nuôi bò cái bằng thực vậttrồng ở khu nhà máy sản xuất có đậm độ As cao, thì tỷ suất As trong sữa bò cũng tăng. Dùng sữatrên để nuôi trẻ, lượng As xâm nhập vào khung hình trẻ cũng tăng. Ở những công nhân nữlàm việc trong khu nhà máy sản xuất có độ cao thì sữa tiết ra của họ cũng có đậm độ As cao. – Flo : Đậm độ Flo tăng trong rau, khoai tây trồng cách nhà máy sản xuất 500 m ( 0,08 – 0,09 mg / 100 g ). Nuôi bò quanh xí nghiệp sản xuất đào thải ra Flo cũng thấy bò bị nhiễm độc Flo. Flo trong cỏ ở cách xí nghiệp sản xuất 2 km cao gấp 10 lần ở nơi làm chứng, ở cách nhà máy sản xuất 3 – 6 km cao gấp 2 – 4 lần. Ngay trong sữa bò nuôi ở vùng đó, Flo cũng chiếm tới 0,43 – 0,74 mg / lít – Chì ( Pb ) : Theo MK. Khaxitoran, tuỳ theo khoảng cách với xí nghiệp sản xuất, Pb cónhững đậm độ khác nhau, càng xa thì đậm độ Pb ở mặt đất càng giảm. Trong 1 số ít thực vật dùng để nuôi súc vật thí nghiệm ( ta dùng loại rau có rửa vàloại rau không rửa ), đơn cử tác dụng thu được như sau : + Loại rửa : Pb trong xương súc vật cao gấp 5 lần, trong gan cao gấp 9 lần so vớiđối chứng. + Loại không rửa : Pb trong xương súc vật cao gấp 20 lần, trong gan cao gấp 27 lần so với đôi chứng. ở Rumani, trong khói xám 1 số ít khu công nghiệp có chứa Pb do gió cuốn đi. Pbđọng lại trên cỏ nhất là về mùa xuân và mùa thu có mưa ; cỏ khô đánh đống cách nhà máy1, 5 km chứa từ 200 – 500 mgPb / Kg cỏ ở lớp ngoài và 19,5 – 37,5 mgPb / kg cỏ ở lớp trong. 5. 2. 3. Ô nhiễm bởi chất phóng xạNhững chất phóng xạ xuất phát từ những vụ nổ bom hạt nhân hoặc những chấtthải bỏ phóng xạ lỏng hay rắn phát ra từ những TT công nghiệp hay nghiên cữukhoa học, hoàn toàn có thể nắng xuống mặt đất và tích tụ ở đó. Những chất phóng xạ này đóng mộtvai trò chủ chốt trong tia bức xạ gama được phát sinh ra bởi những chất phóng xạ tích tụtrên mặt đất. Cũng cần phải chú ý quan tâm đến C14được sinh ra từ nitơ không khí do tính năng củacác nơtron trên những Prton ( ví dụ trong vụ nổ bom H ) và cũng do công dụng của nhữngtia bức xạ thiên hà, chất này tham gia vào chuyển hoá của cacbon ở cây cối, xâm nhập vàocơ thể động vật hoang dã và trong đất. Tuy vậy, người ta không nghĩ rằng chất này mức độ vừa đủđể gây rủi ro tiềm ẩn ô nhiễm. Những nồng độ của Sr phóng xạ trong đất nói chung có liên quanvới mưa, chính bới yếu tố này hầu hết do chững lại mà đến mặt đất. Chất Sr90trong đất bịgiữ lại ở lớp bên ngoài dày 1 – 2 cm do những lực tĩnh điện. Nếu đất bị tiêu mòn, nhữngchất phóng xạ lắng ở đó sẽ bị lôi cuốn đi. Cs phóng xạ được đất giữ lại vững chãi hơn làSr. Tuy nhiên, một số ít thực vật như nấm, địa y, tích tụ Cs gây nguy cơ tiềm ẩn cho động vật hoang dã ănphải những loài thực vật đó. Chất phóng xạ phát sinh ra từ những loại sản phẩm của những chất phân hạch, lắngxuống đất trong những vụ nổ bom hạt nhân đạt tói 10-30 % chất phóng xạ tự nhiên củađất trên nửa bán cầu Bắc. Do đó những vụ nổ bom hạt nhân lê dài hoàn toàn có thể gây ô nhiễmđất và làm mọi người phải chăm sóc đến rủi ro tiềm ẩn của chúng. 6. Biện pháp phòng chống ô nhiễm đất6. 1. Làm sạch cơ bản. Đối tượng chính ở đây là phòng ngừa nhiễm khuẩn nguồn gốc từ phân. Phải ngăncản phân người và nước thải không được tiếp xúc với người dù trực tiếp hay gián tiếp. Hệthống được tạo ra thoả mãn những nhu yếu sau đây : – Tránh làm nhiễm bẩn đất, nước ngầm hoặc nước mặt phẳng. – Lấy phân không cho tiếp xúc với súc vật và đặc biệt quan trọng với người. – Đề phòng những hơi thối hoát ra từ phân và đề phòng làm mất mỹ quan. – Người ta hoàn toàn có thể giải quyết và xử lý nước thải hay đổ chúng ra sông hoặc tịch thu chúng lại đểsử dụng sau này cung ứng lại thức ăn cho những lớp nước. Việc quản trị bể chứa, dòngsông ngày càng phải được tăng cường để điều hoà chất thải bỏ cả về số lượng và chấtlượng. Có thể làm tăng độ trong sáng của nước bằng cách làm tăng lưu lượng của chúngvào mùa khô hoặc trong 1 số ít trường hợp, làm thoáng khí trực tiếp bằng những phươngpháp thoáng khí tự nhiên. Khi xử lý những chất thải bỏ, cần phải quan tâm tới quy hoạch khu dân cư và kỹnghệ mới theo trong những điều kiện kèm theo đã được lựa chọn. Để giải quyết và xử lý nước hoạt động và sinh hoạt, phải gạn những chất ngọt ngào cặn, vận dụng những thiếtbị giải quyết và xử lý thật vừa đủ. Còn so với những chất thải bỏ phân huỷ được, cần có bể giải quyết và xử lý hiếukhí gồm những bể lọc chậm hoặc bùn hoạt tính. Những bể không thay đổi giúp ta giải quyết và xử lý chất thảitriệt để nên được vận dụng thứ nhất cho những khu tập thể. Trường hợp nước thu nhận ít cókhả năng hoà tan hoặc cần xử dụng lại, cần phải có tiến trình giải quyết và xử lý thứ ba. Chính bảnchất những chất chất thải bỏ tuỳ theo từng nơi, chi phối mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý được lựa chọn. Những chất ô nhiễm hoàn toàn có thể xếp thành 4 bậc lớn như sau : – Chất rắn lơ lửng – Hợp chất hữu cơ hoà tan – Hợp chất khoáng hoà tan – Chất dinh dưỡng thực vật đồng hoá được như đạm, phôtpho. 6. 2. Tập trung, luân chuyển và giải quyết và xử lý chất thải. Những chất thải rắn bỏ gồm có rác nội trợ, những phế liệu trong công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Số lượng những chất này tăng lên trên toàn quốc tế. Riêngnhững chất thải bỏ đô thị chiếm khoảng chừng 600 kg cho 1 người dân / năm và tối thiểu là 700 kgở những nước có nền công nghiệp tăng trưởng, mức tăng lên uyển chuyển từ 1 – 2 % hàngnăm dù tỷ trọng rác nội trợ có giảm thì thể tích thường thì của chúng vẫn đạt tới 5 mcho 1 người dân / năm. Những số liệu trên được tính không kể tới những chất thải bỏ rắnxuất phát từ nông nghiệp và công nghiệp và không kể tới những phế liệu trong giải quyết và xử lý nướcthải. Do tập trung chuyên sâu vào đào thải trong những điều kiện kèm theo mất vệ sinh, những chất thải bỏrắn sinh ra rủi ro tiềm ẩn nghiêm trọng cho sức khoẻ, trước nhất chúng làm thuận tiện cho sựphát triển ruồi, muỗi, những loài gặm nhấm, những véc tơ truyền bệnh khác nhau. Ngoài rachúng còn góp thêm phần vào làm ô nhiễm nước, không khí, đất, làm cho đất mất giá trị, tạonên mối rủi ro tiềm ẩn chung và làm tổn hại đến thiên nhiên và môi trường bao quanh. Cách xử lý tốt nhất là chuyển ra xa và nhanh gọn những chất thải bỏ nàybằng mạng lưới hệ thống thu dọn và giải quyết và xử lý chúng thích đáng trước khi khử trọn vẹn hay sử dụnglại. Kết luận1. Tóm lại, đất là một thành phần của hệ sinh thái hoàn hảo, trên đó người takhai thác từ đất những yếu tố vô cơ, để tổng hợp thành những chất dinh dưỡng của cây xanh. Chúng ta tiếp tục tác động ảnh hưởng đến đất và ảnh hưởng tác động đó thường là xấu đi, nên phải bảovệ đất khỏi bị huỷ hoại nghiêm trọng cũng như khỏi bị ô nhiễm bởi những chất thải bỏrắn và lỏng mà những sinh vật thải ra trên mặt đất ngày càng nhiều, nó làm đảo lộn cácchu trình sinh quyển lớn dẫn tới sự mất cân đối của hệ sinh thái trên mặt đất. 2. Trước đây và lúc bấy giờ ở nông thôn có loại hố xí 2 ngăn ủ phân theo phươngpháp kị khí. Trong tương lai rất gần, khi nông thôn của tất cả chúng ta được cơ giới hoá và hiệnđại hoá, ta cũng phải nghĩ tới những loại hố xí bán tự hoại và tự hoại như ở những thành phốnước ta lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, yếu tố sử dụng phân hoá học trong nông nghiệp, vấn đềsử dụng những thuốc trừ sâu sẽ làm ô nhiễm đất về mặt hoá học mà ta cần phải có nhữngbiện pháp ngăn ngừa ngay từ trong bước đầu. Cần phải nâng cấp cải tiến giải pháp luân chuyển, bảoquản, sử dụng phân bón trong thời hạn thích hợp, triển khai những giải pháp kỹ thuật nôngnghiệp, sử dụng tối đa những loại phân bón cho cây xanh. Ở những thành phố và khu côngnghiệp, cần phải nghĩ tới những khu công trình làm sạch nước thải vệ sinh cũng như nhữngbiện pháp giải quyết và xử lý chất thải rắn, sử dụng lại những bã thải và những phế liệu nhằm mục đích chốnglãng phí nguyên vật liệu và giảm bớt ngân sách chống ô nhiễm. Câu hỏi : 1. Nêu những đặc thù vệ sinh và vai trò của đất so với môi trường sinh thái và sứckhoẻ cộng đồng ? 2. Hãy trình diễn nguyên do và những nguồn gây ô nhiễm đất ? 3. Hãy trình diễn những tiêu chuẩn nhìn nhận đất bị ô nhiễm ? 4. Hãy nghiên cứu và phân tích tác động ảnh hưởng của ô nhiễm đất tới sức khoẻ cộng đồng ? 5. Hãy nêu nguyên tắc cơ bản phòng chống ô nhiễm đất ?