Sự sáng tạo của nghệ nhân Việt qua bức tranh “Đám cưới chuột”

(BKT) Trong lịch sử, không phải chỉ trong lĩnh vực văn học mới có hiện tượng như Truyện Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du được phóng tác dựa theo bộ truyện văn xuôi “Kim Vân Kiều truyện” của Trung Quốc mà trong lĩnh vực hội hoạ, các nhà nghiên cứu văn hoá cũng phát hiện một số bức tranh dân gian Việt Nam chịu ảnh hưởng ban đầu từ tranh Trung Quốc. Tuy nhiên, bằng tài năng và sự tiếp thu có sáng tạo, với bút pháp thiên tài của mình, Nguyễn Du đã viết nên Truyện Kiều bất hủ khiến ai cũng nghĩ rằng đây là câu chuyện về người phụ nữ Việt Nam trong chế độ phong kiến. Tương tự, trong lĩnh vực hội hoạ, các nghệ nhân vẽ tranh dân gian đã khéo léo tiếp biến văn hóa ngoại nhập để sáng tạo ra những bức tranh của người Việt; trong đó, điển hình là bức tranh “Đám cưới chuột” của làng tranh Đông Hồ (tỉnh Bắc Ninh) và dòng tranh

Về nội dung, từ bức tranh dân gian “Miêu thần” của Trung Quốc mang ý nghĩa bảo vệ mùa màng, của cải của gia đình chống lại nguy cơ tàn phá của loài chuột đến mùa giao phối, khi sang đến Việt Nam, các nghệ nhân Việt Nam đã nhân cách hóa đàn chuột (người dân thấp cổ bé họng yếu thế) kéo đàn kéo lũ đến đút lót cho đám tham quan, ô lại (mèo) hòng có cuộc sống yên lành… Như vậy, vẫn là những nhân vật mèo và chuột, tranh của Việt Nam lại hoán đổi hoàn toàn vị thế của cả mèo (con vật có ích) lẫn chuột (con vật có hại) trong bức tranh của Trung Quốc nhằm đả kích trực diện tầng lớp cai trị một cách hóm hỉnh! Cách xử lý đề tài của nghệ nhân Việt Nam thể hiện tính sáng tạo, bám sát hiện thực xã hội đương thời, biến bức tranh trở thành “vũ khí chiến đấu” của người yếu thế và hoàn toàn thoát khỏi ý nghĩa bức tranh gốc của Trung Quốc.

Về nghệ thuật tạo hình, nghệ nhân Trung Quốc thể hiện bức tranh “Miêu thần” kỹ lưỡng đến từng chi tiết của đối tượng. Nhân vật và bối cảnh đều tập trung vào tiểu tiết và tuân thủ quy luật phối cảnh xa – gần: Bộ lông mèo được tỉa tót kỹ càng, nhe nanh, giương vuốt được tả rất thực. Đàn chuột được nhân cách hóa cũng được vẽ đầy đủ các chi tiết đến độ tinh vi.

Trái lại, các nghệ nhân Việt Nam của làng tranh Đông Hồ và dòng tranh Hàng Trống thể hiện bức tranh “Đám cưới chuột” theo nguyên tắc “cần sinh động hơn là cần đúng như thật”. Với cách tạo hình đơn giản, vẽ theo mảng lớn, đi vào tổng quát của bức tranh, hai bức tranh dân gian “Đám cưới chuột” Đông Hồ và Hàng Trống tạo được cảm giác gần gũi, phóng khoáng. Không tuân theo luật phối cảnh xa – gần của hội hoạ, hai dòng nhân vật trên – dưới trong tranh Việt tạo không khí tấp nập nhộn nhịp, vui mắt, dáng hình phong phú đa dạng.Phong cách tạo hình ở đây cho thấy có xu hướng diễn đạt của nghệ thuật trang trí, rất gần gũi với xu hướng nghệ thuật điêu khắc dân gian trong nhiều đình làng Việt Nam. Đây là một phong cách nghệ thuật có bản sắc dân tộc, không chỉ thể hiện trong hai bức tranh này mà còn thể hiện trong đại đa số tác phẩm của các dòng tranh dân gian Việt Nam nói chung.

Về màu sắc, người Trung Quốc chỉ dùng màu xám với các sắc độ đậm nhạt để tả lông chuột trong bức tranh “Miêu thần”. Còn người nghệ nhân Việt Nam sử dụng linh hoạt màu sắc tự chế từ những nguyên liệu bản địa, tạo nên dấu ấn đậm nét cho dòng tranh truyền thống của địa phương mình. Tranh “Đám cưới chuột” của dòng tranh Hàng Trống dùng những màu phẩm đặc trưng là vàng, hồng, xanh lam và cam, với cách tô màu phóng khoáng và những đoạn lé màu rất “duyên” cho thấy cái “thần” bút của người nghệ nhân xưa. Trong khi đó, bức tranh “Đám cưới chuột” của làng tranh Đông Hồ được in trên giấy điệp bằng các màu tự nhiên xanh, vàng, đỏ và đen đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, được công chúng hết sức yêu quý.

Như vậy, bằng ngôn ngữ nghệ thuật riêng, phong cách nghệ thuật riêng, từ một bức tranh dân gian Trung Quốc du nhập, nghệ nhân dân gian Đông Hồ và Hàng Trống đã Việt hoá từ nghệ thuật tạo hình, màu sắc cho đến ý tưởng sâu xa xây dựng nên hình tượng nghệ thuật thoát khỏi ảnh hưởng của tác phẩm nguyên gốc. Nghệ nhân dân gian xưa đã tiếp nhận một cách có chọn lọc văn hóa phương Bắc rồi phát triển để cho tác phẩm nghệ thuật Việt Nam phù hợp với cảm nhận thẩm mỹ của người Việt, để tạo nên một bản sắc văn hóa riêng cho dân tộc.

NGUYỄN VŨ

Theo các nhà nghiên cứu văn hoá, bức tranh “Đám cưới chuột” của hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống có nguyên gốc từ bức tranh dân gian “Miêu thần” (Thần mèo) của Trung Quốc.Về nội dung, từ bức tranh dân gian “Miêu thần” của Trung Quốc mang ý nghĩa bảo vệ mùa màng, của cải của gia đình chống lại nguy cơ tàn phá của loài chuột đến mùa giao phối, khi sang đến Việt Nam, các nghệ nhân Việt Nam đã nhân cách hóa đàn chuột (người dân thấp cổ bé họng yếu thế) kéo đàn kéo lũ đến đút lót cho đám tham quan, ô lại (mèo) hòng có cuộc sống yên lành… Như vậy, vẫn là những nhân vật mèo và chuột, tranh của Việt Nam lại hoán đổi hoàn toàn vị thế của cả mèo (con vật có ích) lẫn chuột (con vật có hại) trong bức tranh của Trung Quốc nhằm đả kích trực diện tầng lớp cai trị một cách hóm hỉnh! Cách xử lý đề tài của nghệ nhân Việt Nam thể hiện tính sáng tạo, bám sát hiện thực xã hội đương thời, biến bức tranh trở thành “vũ khí chiến đấu” của người yếu thế và hoàn toàn thoát khỏi ý nghĩa bức tranh gốc của Trung Quốc.Về nghệ thuật tạo hình, nghệ nhân Trung Quốc thể hiện bức tranh “Miêu thần” kỹ lưỡng đến từng chi tiết của đối tượng. Nhân vật và bối cảnh đều tập trung vào tiểu tiết và tuân thủ quy luật phối cảnh xa – gần: Bộ lông mèo được tỉa tót kỹ càng, nhe nanh, giương vuốt được tả rất thực. Đàn chuột được nhân cách hóa cũng được vẽ đầy đủ các chi tiết đến độ tinh vi.Trái lại, các nghệ nhân Việt Nam của làng tranh Đông Hồ và dòng tranh Hàng Trống thể hiện bức tranh “Đám cưới chuột” theo nguyên tắc “cần sinh động hơn là cần đúng như thật”. Với cách tạo hình đơn giản, vẽ theo mảng lớn, đi vào tổng quát của bức tranh, hai bức tranh dân gian “Đám cưới chuột” Đông Hồ và Hàng Trống tạo được cảm giác gần gũi, phóng khoáng. Không tuân theo luật phối cảnh xa – gần của hội hoạ, hai dòng nhân vật trên – dưới trong tranh Việt tạo không khí tấp nập nhộn nhịp, vui mắt, dáng hình phong phú đa dạng.Phong cách tạo hình ở đây cho thấy có xu hướng diễn đạt của nghệ thuật trang trí, rất gần gũi với xu hướng nghệ thuật điêu khắc dân gian trong nhiều đình làng Việt Nam. Đây là một phong cách nghệ thuật có bản sắc dân tộc, không chỉ thể hiện trong hai bức tranh này mà còn thể hiện trong đại đa số tác phẩm của các dòng tranh dân gian Việt Nam nói chung.Về màu sắc, người Trung Quốc chỉ dùng màu xám với các sắc độ đậm nhạt để tả lông chuột trong bức tranh “Miêu thần”. Còn người nghệ nhân Việt Nam sử dụng linh hoạt màu sắc tự chế từ những nguyên liệu bản địa, tạo nên dấu ấn đậm nét cho dòng tranh truyền thống của địa phương mình. Tranh “Đám cưới chuột” của dòng tranh Hàng Trống dùng những màu phẩm đặc trưng là vàng, hồng, xanh lam và cam, với cách tô màu phóng khoáng và những đoạn lé màu rất “duyên” cho thấy cái “thần” bút của người nghệ nhân xưa. Trong khi đó, bức tranh “Đám cưới chuột” của làng tranh Đông Hồ được in trên giấy điệp bằng các màu tự nhiên xanh, vàng, đỏ và đen đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, được công chúng hết sức yêu quý.Như vậy, bằng ngôn ngữ nghệ thuật riêng, phong cách nghệ thuật riêng, từ một bức tranh dân gian Trung Quốc du nhập, nghệ nhân dân gian Đông Hồ và Hàng Trống đã Việt hoá từ nghệ thuật tạo hình, màu sắc cho đến ý tưởng sâu xa xây dựng nên hình tượng nghệ thuật thoát khỏi ảnh hưởng của tác phẩm nguyên gốc. Nghệ nhân dân gian xưa đã tiếp nhận một cách có chọn lọc văn hóa phương Bắc rồi phát triển để cho tác phẩm nghệ thuật Việt Nam phù hợp với cảm nhận thẩm mỹ của người Việt, để tạo nên một bản sắc văn hóa riêng cho dân tộc.