Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở 53 dân tộc thiểu số có giảm nhưng chưa đồng đều

Báo cáo đưa ra các số liệu cụ thể về thực trạng TH&HNCHT của 53 DTTS ở Việt NamBáo cáo đưa ra các số liệu cụ thể về thực trạng TH&HNCHT của 53 DTTS ở Việt Nam

Nội dung hai báo cáo được công bố trong tháng 8/2021 gồm số liệu về phụ nữ và nam giới các dân tộc ở Việt Nam giai đoạn 2015-2019, các kết quả phân tích giới và các khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong vùng DTTS ở Việt Nam.

Các nguồn số liệu, thông tin trong hai báo cáo nói trên được thống kê giám sát từ tác dụng Điều tra tích lũy thông tin về tình hình kinh tế-xã hội của 53 DTTS ở Nước Ta do Tổng cục thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc thực thi năm năm ngoái và năm 2019 .Hai báo cáo tập trung chuyên sâu vào 7 chủ đề chính là : Dân số ; hạ tầng và gia tài ; lao động, việc làm, thu nhập ; giáo dục và huấn luyện và đào tạo ; văn hoá và xã hội ; y tế và vệ sinh thiên nhiên và môi trường ; cán bộ, công chức là người DTTS .

Kết quả phân tích số liệu tách biệt giới tính trong giai đoạn 2015-2019 trong báo cáo cho thấy, những thành tựu nổi bật về bình đẳng giới trong các vùng DTTS và miền núi như: Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7 điểm phần trăm; tỷ lệ hộ gia đình DTTS có kết nối internet (Wi-Fi, cáp hoặc 3G) tăng 9,4 lần, từ 6,5% năm 2015 lên 61,3% năm 2019; thu nhập bình quân một nhân khẩu/tháng của người DTTS năm 2018 đã tăng 1,8 lần so với năm 2014 và thu nhập trung bình hằng tháng của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam; tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS tăng 15,2% trong giai đoạn 2015 và 2019; tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5% trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ…

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, báo cáo cũng chỉ rõ một số ít yếu tố giới ảnh hưởng tác động đến phụ nữ và trẻ em gái vẫn liên tục sống sót trong vùng DTTS và miền núi. Tỷ lệ TH&HNCHT chung ở 53 DTTS tuy có giảm, tuy nhiên mức giảm chưa đồng đều, riêng biệt vẫn liên tục tăng trong một số ít dân tộc bản địa như Mông, Cơ Lao, Mảng, Xinh Mun, Mạ .Tình trạng hôn nhân cận huyết thống cũng đã giảm. Một số DTTS có tỷ suất hôn nhân cận huyết thống cao năm năm trước, đến năm 2019 đã không còn thực trạng này như dân tộc bản địa Mạ, Mảng, Cơ Ho, Kháng, Chứt. Tuy nhiên, 1 số ít DTTS vẫn có tỷ suất kết hôn cận huyết thống cao như : Mnông, La Chí, Bru Vân Kiều, Cơ Tu, Lô Lô, Gia Rai, La Ha …Những nghiên cứu và phân tích về bình đẳng giới ở vùng DTTS trong Báo cáo là thông tin nền tảng và hữu dụng cho những bên tương quan để phong cách thiết kế những chủ trương và chương trình can thiệp để bảo vệ phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau trong quy trình tăng trưởng bền vững và kiên cố của quốc gia .