Seven (ca sĩ Hàn Quốc) – Wikipedia tiếng Việt

Choi Dong Wook (tiếng Hàn: 최동욱, sinh ngày 9 tháng 11 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh Se7en (phát âm như “seven”, tiếng Hàn: 세븐), là một nam ca sĩ Hàn Quốc theo dòng nhạc pop và R&B. Se7en gia nhập YG Entertainment năm 15 tuổi và bắt đầu luyện tập từ đó. Sau 4 năm luyện giọng và nhảy, Se7en đạt được thành công đầu tiên năm 2003 và lan rộng ra cả châu Á. Se7en đã cho ra mắt 5 album (4 bằng tiếng Hàn, 1 bằng tiếng Nhật), rất nhiều solo, và ấp ủ hy vọng trở thành ca sĩ nổi tiếng trên thế giới.

Hiện tại Se7en đã rời khỏi YG, chính thức công bố khởi đầu mới của mình với công ty Eleven Nine : http://1109ent.com/Ngày 23/12, đại diện thay mặt của Eleven Nine phát biểu, ” SE7EN đã chính thức khánh thành tòa trụ sở của ELEVEN NINE ENTERTAINMENT tại khu Hongdae, Seoul. ”

Sau lần công diễn đầu tiên, Se7en hoạt động dưới thương hiệu YG Entertainment. Sự nghiệp của anh là một chuỗi hoạt động quảng cáo cho bài hát của mình qua những buổi biểu diễn trên TV, đài, và thỉnh thoảng, liveshow. Anh cũng bắt đầu học tiếng Nhật để chuẩn bị cho những hoạt động quảng cáo album ở Nhật năm 2005. Hiện anh đang trau dồi tiếng Anh để thực hiện album ở Mĩ được dự tính vào năm 2007.
Se7en không ngừng đi đến các nước châu Á, đặc biệt là Nhật, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc. Anh cũng biểu diễn một vài lần ở Mĩ, cụ thể là Los Angeles, New York City, và Washington DC.
Ngoài biểu diễn, anh còn tham gia rất nhiều gameshow tại Nam Hàn Quốc và Nhật Bản, và các chương trình quảng cáo như Anycall, Baskin Robbins, Coca Cola, LG telecom, Sprite và gần đây nhất, K-SWISS. Anh đã có 5 liveshow ở Nhật Bản: một lần năm 2005 ở Yokohama, vào năm 2006, 2 lần ở Tokyo và 2 lần ở Osaka. Anh tổ chức tổng cộng 3 liveshow cho album “24/SE7EN” vào tháng 6 năm 2006 ở Seoul, Nam Hàn Quốc. Sự nổi tiếng của anh đã mang lại giải thưởng Ca sĩ Hàn Quốc được yêu thích nhất trong giải thưởng MTV châu Á năm 2006 tại Bangkok, Thái Lan, và giải thưởng MTV Best Buzz Asia Award 2006.

SE7EN đã công bố việc xây dựng của Eleven Nine vào hồi tháng 7/2015. Toàn bộ nhân viên cấp dưới những người đã thao tác cùng anh từ khi ra đời vào năm 2003 đã cùng góp phần tăng trưởng công ty trong nghành nghề dịch vụ âm nhạc, quản trị diễn viên, sản xuất những màn trình diễn và giảng dạy nghệ sĩ mới .Ngoài Eleven Nine ra thì MOMOCON, một nhóm truyền thông online trên điện thoại thông minh do Se7en góp vốn đầu tư cũng đang đặt trụ sở trong toà nhà .” Từ kiến thiết xây dựng tòa nhà cho tới sắp xếp khoảng trống, Se7en đã bỏ rất nhiều sức lực lao động cho việc kinh doanh thương mại này “, một đại diện thay mặt cho biết. ” Ngay sau khi chính thức hoạt động giải trí, chúng tôi sẽ đền đáp lại tình cảm của những fan và tăng trưởng thành một công ty vui chơi với những ảnh hưởng tác động tốt đẹp trong nhiều nghành nghề dịch vụ ” .

“Ngôi nhà” vững chắc Elevenine của Se7en mặc dù khởi đầu là “công ty một thành viên” thế nhưng năm sau sẽ đột phá trở thành công ty giải trí tổng hợp. Hiện tại đã có một số nghệ sĩ đồng nghiệp liên lạc với Se7en nói rằng “Muốn cùng cộng tác”. Trong số những người tham gia hội ý lần cuối cùng để xây dựng thành một gia đình chung có cả diễn viên, do đó chúng ta có thể thấy triển vọng một công ty tươi sáng với những thành viên mới.

Album đầu tay ở Mĩ[sửa|sửa mã nguồn]

Se7en đang thao tác cùng với Rich Harrison – từng đoạt giải Grammy – trong album solo tại Mĩ, dự tính ra đời vào mùa xuân năm 2007. Se7en và YG Family ( kể cả Big Bang, Jinusean và Gummy ) gần đây đã Open trên Một Thành Viên K, cùng với 3 liveshow ở Washington DC, New York City, và Los Angeles, để kỉ niệm 10 năm YG Family và để quảng cáo cho album của Se7en. Đoạn phim do MTV K được phát sóng ngày 11 tháng 12 năm 2006 .Se7en sẽ song ca với Amerie trong bản remix của ” Take control ” .Yang Hyun Suk, ( CEO của YG Entertainment ) đã thông tin rằng ca sĩ rap người Mỹ, Fabolous, sẽ xuất hiện trong album solo của Se7en ở Mĩ .

Sự nghiệp diễn xuất[sửa|sửa mã nguồn]

Se7en chính thức chấp nhật thủ vai chính trong bộ phim Hàn Quốc “Goong S”, một chuyển thể của Goong (Hoàng Cung). Tập đầu tiên đã trình chiếu vào ngày 10 tháng 1 năm 2007 trên kênh MBC; mức đánh giá trên toàn thế giới là 14.7%.

năm ngoái, Se7en liên tục thử sức trong nghành nghề dịch vụ nhạc kịch sau nhiều năm vắng bóng, với vở Elisabeth. Được dàn dựng theo một cuốn sách của Áo, vở nhạc kịch kể về một hoàng hậu Áo ngày càng ám ảnh với cái chết. Khi tham gia vở nhạc kịch này, Se7en sẽ sử dụng tên thật là Choi Dong Wook. Trong vở nhạc kịch, vai diễn của anh, Der Tod, không phải là nhân vật chính. Tuy nhiên những màn vũ đạo can đảm và mạnh mẽ và những ca khúc rock của nhân vật này là điểm nhấn của vở nhạc kịch. Thành công của vở nhạc kịch đưa Se7en đến với nhiều dự án Bất Động Sản nhạc kịch mới tại Hàn và Nhật. Năng lực diễn xuất và ca hát của anh một lần nữa được nhìn nhận cao
Giọng của Se7en được xếp vào giọng nam cao. Giọng ca của anh được miêu tả là một giọng êm dịu, ngọt ngào và nhiều khi có sức bào mòn can đảm và mạnh mẽ khi hát những bài hát như ” Crazy ” and ” I Know “. Anh thường hát với tiếng rung trong giọng như những ca sĩ R&B Mĩ thường hát, và cũng đập dồn dập như trong bài ” Passion “. Se7en luôn giữ trong mình một lời hứa là không khi nào hát nhép trong mỗi cuộc màn biểu diễn của mình .
Thêm vào đó, Se7en được biết đến với những điệu nhảy của mình. Phong cách nhảy của anh, cũng như thanh âm, cũng rất nhẹ nhàng và hướng đến freestyle ( nhảy tự do ) hơn là choreography nặng. Một vài kỹ thuật và anh sử dụng trong khi trình diễn là trượt, ưỡn ngực, và chào sân. Chiêu break của anh, trong lúc trình diễn bài ” Come Back to Me “, là Nike. Gần đây, anh đã trình diễn gainer và pike trong bài ” I Know ” .

Danh sách đĩa nhạc[sửa|sửa mã nguồn]

Album tiếng Hàn[sửa|sửa mã nguồn]

  • Just Listen (album) (2003)
  • Must Listen (album) (2004)
  • 24/Se7en (2006)
  • Se7olution (2006)
  • I AM SE7EN (album) (2016)

Đĩa đơn tiếng Hàn[sửa|sửa mã nguồn]

  • Crazy – (2004.12.01) – 1st Commercial Korean digital single
  • 747 – (2007.6.29) – digital single

Album tiếng Nhật[sửa|sửa mã nguồn]

  • First SE7EN (2006.03.08) #15 Oricon Weekly Chart (Tổng lượng bán: 18.710)

Đĩa đơn tiếng Nhật[sửa|sửa mã nguồn]

  • Hikari (光) (2005.02.23) #28 Oricon Weekly Chart (Tổng: 16.412)
  • Style (2005.05.18) #10 Oricon Weekly Chart (Tổng: 16.426)
  • Start Line (スタートライン) / Forever (double A-side single) (2005.10.19)
  • I Wanna… (2006.09.13) #10 Oricon Weekly Chart (Bán được tuần đầu: 9.265)
  • Aitai (会いたい) (2007.03.28) #10 Oricon Daily Chart, #17 Oricon Weekly Chart (Tổng: 8.039)
  • Ari no Mama (ありのまま) (2007.07.04) #5 Oricon Daily Chart, #11 Oricon Weekly Chart (Tổng: 11.284)
  • Kimi Dake ni (君だけに) (2008.01.23) Đĩa đơn kỹ thuật số tiếng Nhật đầu tiên

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]