CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG M&A VIỆT NAM – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản rất đầy đủ của tài liệu tại đây ( 2.16 MB, 125 trang )

sẽ có hàng tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đầu tư để thực hiện những dự án mới.

Hơn nữa, với việc Mỹ đã thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn

(PNTR), các hoạt động đầu tư, M&A và các dịch vụ kèm theo sẽ trở nên nhộn nhịp

hơn bao giờ hết.

 Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường cạnh tranh tại Việt

Nam, đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải nỗ lực phát triển không ngừng về dịch vụ

sản phẩm và công nghệ, nếu không sẽ dễ dàng thụt lùi và bị đẩy ra ngoài cuộc chơi.

Điều này sẽ dẫn đến việc kết hợp các doanh nghiệp lại với nhau nhằm tăng cường

sức mạnh trong lĩnh vực kinh doanh và M&A là một đòi hỏi tất yếu của tiến trình

này.

 Xu hướng hình thành các Tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực

cũng là một tiền đề, tín hiệu tốt cho nền kinh tế, làm tăng sức cạnh tranh cho các

doanh nghiệp và là nhân tố giúp hoạt động M&A tại Việt Nam diễn ra thuận lợi

hơn.

4.1.2 Xu hướng M&A trong thời gian tới

Cuối năm 2008, một số hợp đồng M&A trong lĩnh vực Ngân hàng đã báo

hiệu một Thị trường sôi động trong những năm kế tiếp. Lĩnh vực dịch vụ Tài chính

mà cụ thể là Ngành Chứng khoán và Ngân hàng sẽ là thước đo độ nóng của Thị

trường này.

Theo một báo cáo được công bố cuối tháng 1 năm nay, Công ty

Pricewaterhouse Coopers Vietnam đã nhận định, năm 2009, hoạt động M&A trong

ngành dịch vụ Tài chính vẫn tiếp tục phát triển nhanh, đặc biệt liên quan tới các

Ngân hàng địa phương và các công ty Chứng khoán. Thực tế cho thấy, trong bối

cảnh tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay đối với hai ngành Ngân hàng và

Chứng khoán, để sống còn, các doanh nghiệp thuộc hai ngành này sẽ phải tìm cách

sáp nhập với các đối thủ cạnh tranh có quy mô tương tự hay với các doanh nghiệp

có thể bổ sung cho chính doanh nghiệp của mình.

Hiện tại, trong số khoảng 100 công ty chứng khoán đang hoạt động, có

khoảng 1/10 công ty có khách hàng giao dịch 70,75 mã chứng khoán niêm yết trên

thị trường. Vì vậy, 9/10 công ty chứng khoán chia nhau miếng bánh còn lại. Trong

khi đó phí giao dịch chỉ khoảng 0,15% hoặc cao hơn chút ít. Bên cạnh đó, số lượng

các công ty chứng khoán là quá nhiều trong khi vốn hoá thị trường lại thấp. Ngoài

ra, trong tình thế kinh tế khó khăn như hiện nay, nhiều công ty chứng khoán sống

rất lay lắt, phí hoạt động gián tiếp rất lớn nên phương án phá sản hoặc sáp nhập là

điều các công ty chứng khoán sẽ phải đối mặt. Số lượng các công ty chứng khoán lỗ

lên đến 70% và các công ty phải tìm cách bảo toàn vốn. Chính vì vậy, trừ những

công ty chứng khoán thuộc hệ thống ngân hàng thương mại thì có tới 30% hoặc hơn

các công ty chứng khoán sẽ tiếp tục tìm kiếm đối tác và nhà đầu tư. Thực tế cũng

cho thấy, nếu năm trước có 10% số ngân hàng và 20% các công ty chứng khoán có

nhu cầu tìm nhà đầu tư chiến lược thì năm nay cả hai con số đều tăng lên 30%. Vì lẽ

đó, ta có thể mạnh dạn khẳng định rằng năm 2009 và 2010 sẽ là năm khởi đầu cho

các công ty trong nước mở rộng cửa cho các các công ty nước ngoài tham gia và

chiến lược M&A sẽ trở nên hiện thực hơn trong điều kiện nền kinh tế còn khó khăn,

và vì vậy ý chí hợp nhất hoặc chuyển hình thức sở hữu sẽ càng rõ nét hơn.

Đối với ngành ngân hàng, hiện có khoảng 1/3 số ngân hàng phải tính tới kế

hoạch hợp nhất hoặc tìm đối tác tài chính chiến lược. Những cuộc tìm kiếm đối tác

chiến lược của Seabank, Techcombank hay mới nhất là Ngân hàng thương mại cổ

phần Quân Đội chọn Viettel làm đối tác chiến lược trong những ngày cuối năm vừa

qua càng thêm phần củng cố quyết tâm cho các ngân hàng khác. Năm 2008 kết thúc

và các ngân hàng đều đạt hoặc vượt kế hoạch lợi nhuận. Tuy nhiên thách thức đối

với họ là mức vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng phải đạt được vào năm 2010 vì 9 ngân

hàng nhỏ phải trầy trật lắm mới tăng được vốn điều lệ lên mức 1.000 tỷ đồng vào

cuối năm 2008 vừa qua.

Nhìn sang phía người mua, khủng hoảng tài chính toàn cầu tạo nên những

khó khăn không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, năm 2009, những nhà đầu tư được dự

đoán sẽ đến từ Nhật Bản và Mỹ vẫn sẽ tìm kiếm cơ hội tại thị trường Việt Nam.

Trong đó, các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ chờ đợi kết quả hoạt động của quý 1 năm nay

để ra quyết định cho bước tiếp theo. Không chỉ có vậy, yếu tố mới khiến thị trường

thêm sôi động chính là sự góp mặt của người mua trong nước thay vì chỉ trông chờ

vào các nhà đầu tư nước ngoài.

Nhìn chung, không ai phủ nhận tính tích cực của M&A trong việc tiếp cận

được kinh nghiệm và kỹ năng đầu tư, làm cơ sở để giúp thu hút khách hàng ngoài

nước và tăng nguồn ngân quỹ. Vì thế, không chỉ các công ty thua lỗ hay nhỏ lẻ mới

tìm đến M&A mà chính những công ty đang phát đạt cũng không bỏ qua con đường

nhiều tiện ích này. Tuy nhiên, không bao giờ là dễ dàng, sẽ chỉ có thị trường M&A

sôi động khi chúng ta có môi trường pháp lý tốt và chính bản thân các doanh nghiệp

thực sự chú trọng đến lĩnh vực này.

4.2 Giải pháp phát triển thị trường M&A từ phía Nhà nước

4.2.1 Giải pháp xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý về M&A

Thị trường mua bán và sáp nhập Doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ coi là được

hình thành khi doanh nghiệp trở thành hàng hoá. Không phải cứ có hoạt động M&A

là sẽ có thị trường mua bán doanh nghiệp vì chỉ khi nào hoạt động này phát triển

đến một mức độ nhất định thì mới có thị trường mua bán doanh nghiệp. Và không

thị trường nào có thể tồn tại ở một nơi trống không, thị trường chỉ tồn tại trên cơ sở

các khung pháp lý của Nhà nước đưa ra.

Thêm vào đó, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh cao giữa

các doanh nghiệp sẽ là động lực để các doanh nghiệp vươn lên, phát triển cả chiều

ngang lẫn chiều rộng, và đương nhiên khi đó sẽ có doanh nghiệp tồn tại, phát triển,

sẽ có doanh nghiệp phá sản, bị thôn tính, tất yếu sẽ hình thành nhu cầu cần mua, cần

bán, sáp nhập, liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp để lớn mạnh hơn, phát

triển hơn và hỗ trợ cho nhau tốt hơn. Tuy nhiên, như đã đề cập, mua bán doanh

nghiệp không đơn giản như mua bán một sản phẩm hàng hóa thông thường. Một

thương vụ sáp nhập thành công hay không phụ thuộc vào vào rất nhiều yếu tố: nhu

cầu, giá cả, giải quyết các vấn đề phát sinh hậu sáp nhập… Hiện nay, các văn bản

pháp lý thực sự để điều chỉnh hoạt động mua bán, sáp nhập ở Việt Nam còn rất ít,

hầu hết còn rất chung chung, mơ hồ. Nên, muốn có một thị trường mua bán, sáp

nhập phát triển, Nhà nước cần tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp có thể thực hiện

thành công giao dịch này.

Hiện nay, các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động mua bán, sáp nhập ở

Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản khác nhau như Bộ Luật Dân sự, Luật

Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Chuẩn mực kế toán… tuy nhiên các

quy định đó vẫn còn đang nằm rải rác ở các bộ luật, nghị định, thông tư hay các

cam kết gia nhập WTO và chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt

động M&A, tức là mới chỉ giải quyết được các vấn đề về việc “thay tên, đổi họ’’

cho doanh nghiệp. Duy chỉ có chuẩn mực kế toán số 11 ban hành kèm theo Quyết

định số 100/QĐ-BTC ngày 28-12-2005 hướng dẫn thực hiện hợp nhất kinh doanh

trong giao dịch mua bán doanh nghiệp là được quy định khá cụ thể và rõ ràng. Mặc

dù vậy, văn bản này cũng chỉ mới hướng dẫn cụ thể cách thức xử lý kế toán khi tiến

hành giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chưa có một cơ quan

thống nhất chịu trách nhiệm điều chỉnh hoạt động M&A. Chính điều này đã làm cho

những người tham gia hoạt động M&A rất khó tìm hiểu kỹ càng những vấn đề về

pháp lý cho hoạt động M&A, đến khi thực hiện thì phải chạy nhiều nơi, đi nhiều

chỗ để xin cấp giấy phép. Xuất phát từ nhược điểm này chúng tôi đề nghị cần phải

có một bộ luật riêng điều chỉnh cho hoạt động M&A tại Việt Nam và thống nhất chỉ

có duy nhất một cơ quan quản lý, xét duyệt, kiểm tra các hồ sơ khi thực hiện M&A.

Hoạt động M&A là một giao dịch thương mại, tài chính, đòi hỏi phải có quy

đinh cụ thể hướng dẫn tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để có thể hoàn tất

được giao dịch, phải có một cơ chế thị trường để chào bán, chào mua doanh nghiệp,

giá cả, cung cấp thông tin, chuyển giao và xác lập sở hữu, chuyển dịch tư cách pháp

nhân, cổ phần, cổ phiếu các nghĩa vụ tài chính, đất đai, người lao động, thương

hiệu… Đồng thời, còn hàng loạt vấn đề liên quan trực tiếp đến mua bán và sáp nhập

mà pháp luật nước ta còn chưa có quy định cụ thể như kiểm toán, định giá, tư vấn,

môi giới, bảo mật, thông tin, cơ chế giải quyết tranh chấp… Do đó, Việt Nam cần

phải hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động M&A trong thời gian

tới, để tạo ra một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh cho hoạt động mua bán, sáp nhập được

diễn ra thông suốt.

Một hành lang pháp lý hoàn thiện sẽ tạo điều kiện góp phần thúc đẩy các

giao dịch M&A phát triển, nó sẽ tạo điều kiện để xác lập các giao dịch, địa vị pháp

lý của các bên trong giao dịch và hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Tuy

rằng khung pháp lý cho hoạt động M&A tại Việt Nam đã hình thành, nhưng còn rất

nhiều vấn đề chưa cụ thể và minh bạch, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giới

hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, do đó cần

thống nhất những quy định trên, cụ thể ở những vấn đề sau:

Thứ nhất, cần xem xét lại quy định về giới hạn quyền sở hữu nước ngoài tại

các công ty trong lĩnh vực phân phối: Hiện vẫn áp dụng mức giới hạn ở mức 49%

cho công ty niêm yết và chưa niêm yết (trừ lĩnh vực ngân hàng là 30%) nhưng trong

9

nghị định 139/2007/NĐ-CP và cam kết WTO lại quy định mức sở hữu này lên tới

99%.

Thứ hai, cần phải làm rõ ràng những vấn đề sau:

 Thế nào là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài? Nếu như doanh

nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng mang “quốc tịch” Việt Nam vẫn được xem là

doanh nghiệp Việt Nam. Vậy, nếu một doanh nghiệp chỉ có 1% vốn đầu tư nước

ngoài thì có được xem là doanh nghiệp Việt Nam hay đó là doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài, và đây là một cách để các nhà đầu tư nước ngoài lách luật góp

vốn và trốn thuế.

Cần phải làm rõ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được xem là

nhà đầu tư nước ngoài hay không? Chính sự không rõ ràng của vấn đề này thời gian

qua mà các nhà đầu tư nước ngoài đã lách các qui định về quyền sở hữu trong các doanh

nghiệp Việt Nam.

 Cần phải xác lập rõ ràng quy định sở hữu của Nhà nước trong từng lĩnh

vực. Bên cạnh việc hoàn chỉnh nội dung cho rõ ràng, chính xác thì nên có

những quy định thêm để thúc đẩy hoạt động M&A thực hiện dễ dàng và hiệu

quả hơn:

 Thứ nhất, Việt Nam cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đẩy mạnh cải cách

hành chính để thúc đẩy nhu cầu M&A cho các doanh nghiệp. Nhà nước nên xem

mua bán, sáp nhập doanh nghiệp như là một giao dịch thương mại thuần tuý,

giống như việc mua bán một loại tài sản. Điều đó sẽ dễ dàng hơn cho các cơ

quan chức năng trong việc quản lý, giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu có. Còn

nếu vẫn giữ nguyên tình trạng như hiện nay, tức là xem đó là hình thức đầu tư, thì

Nhà nước cũng nên tạo điều kiện để quan hệ thị trường này được thực hiện tốt. Bên

cạnh đó, cần tạo ra nhu cầu nội tại cho thị trường, đặc biệt trong môi trường kinh

doanh có sự cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp. Muốn vậy phải:

o Nâng cao tinh thần trách nhiệm, sự nhận thức vấn đề một cách đúng đắn,

đầy đủ từ các cơ quan quản lý cũng như từ phía các Doanh nghiệp Nhà nước.

o Tăng cường năng lực và mở rộng hoạt động của các công ty tư vấn tài

chính và đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đang hoạt động tại thị trường Việt

Nam.

o Cần có thêm các tổ chức trung gian uy tín chuyên đứng ra phụ trách để

thực hiện các vụ mua lại và sáp nhập, từ đó giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp.

Nhà nước cũng cần hỗ trợ và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức trung gian này.

 Thứ hai, Bộ tài chính và Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần xây dựng kênh

kiểm soát thông tin, tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt

động mua bán, sáp nhập nói riêng. Bởi vì, trong hoạt động M&A, thông tin về giá

cả, thương hiệu, thị trường, thị phần, quản trị, con người… là rất cần thiết cho cả

bên mua lẫn bên bán. Nếu thông tin không được kiểm soát, không minh bạch sẽ gây

ra nhiều thiệt hại cho cả bên mua, bên bán, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến các thị

trường khác như hàng hóa, chứng khoán, ngân hàng. Cũng như các thị trường khác,

thị trường mua bán và sáp nhập doanh nghiệp hoạt động có tính dây chuyền, nếu

một thương vụ M&A lớn diễn ra không thành công hoặc có yếu tố lừa dối thì hậu

quả cho nền kinh tế là rất lớn vì có thể giá cổ phiểu, trái phiếu, hoạt động kinh

doanh, đầu tư… của doanh nghiệp đó nói riêng và các doanh nghiệp liên quan bị ảnh

hưởng theo. Từ đó, kéo theo hệ lụy cho cả nền kinh tế nếu một trong hai công ty sáp

nhập là một Tập đoàn lớn cỡ như các Tổng công ty của Nhà nước. Hơn nữa, hoạt

động M&A hàm chứa rất nhiều yếu tố rủi ro, tình trạng độc quyền có thể tạo ra khi

mà các thương vụ lớn trong một ngành được tiến hành, do đó, rất cần sự kiểm soát

thông tin chặt chẽ của Nhà nước thông qua các công cụ pháp lý hướng dẫn các qui

định cụ thể rõ ràng và minh bạch để có thể phát huy được các mặt tích cực và hạn

chế tối đa mặt trái này, không làm ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, nền kinh tế,

người tiêu dùng.

Thứ ba, Nhà nước cần ra soát các quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật

Chứng khoán, Luật Đầu tư để thống nhất và ban hành Nghị định về sáp nhập,

mua lại trong đó cần quy định, hướng dẫn cụ thể tiến trình thực hiện M&A như:

thủ tục thực hiện, các bước thực hiện, thời gian xem xét hồ sơ, quy định về chế

độ thuế, cách hạch toán sổ sách…

Thứ tư, Khung pháp lý về M&A cần chuyên biệt, không nên dựa quá nhiều

trên các khung pháp lý dành cho cổ phần hóa, phát hành và niêm yết chứng

khoán. Khung pháp lý này phải tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị của bên

mua, bên bán và hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch.

Thứ năm, Luật cạnh tranh cấm doanh nghiệp sáp nhập, mua lại có thể dẫn đến

việc một doanh nghiệp có mức tập trung kinh tế lớn hơn 50% thị trường liên

quan nhưng lại không quy định thị trường liên quan được tính như thế nào, do đó,

Nhà nước cần quy định cụ thể cách tính thị trường liên quan, tránh trường hợp

các doanh nghiệp sử dụng cách tính có lợi gây nên tình trạng độc quyền.

Thứ sáu, Điều 11, nghị định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư ngày 15 tháng 5

năm 2006, có nhiều vấn đề cần chỉnh sửa:

• Mục 1, nên nêu thêm nguyên tắc khuyến khích đầu tư theo hình thức góp

vốn, mua cổ phần, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Hiện tại theo quy định của

pháp luật: Cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp là

những cơ sở mới được thành lập và được cấp giấy phép kinh doanh kể từ ngày Luật

Thuế thu nhập có hiệu lực thi hành (Nghị định 164/2003/ND-CP). Những cơ sở

thành lập trước đây nay sáp nhập, chia tách không thuộc đối tượng được xét miễn,

giảm thuế như cơ sở sản xuất mới thành lập.

• Mục 2, hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài là đương nhiên, không cần

thiết phải nhắc lại. Nhưng cần phải chỉ ra các cam kết về các tỷ lệ mua, hình thức

đầu tư và lộ trình quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ bảy, Theo Luật cạnh tranh năm 2004 và Luật Doanh nghiệp năm 2005,

việc kiểm soát các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các

doanh nghiệp có sự tham gia của các cơ quan là:

• Cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng kiểm soát tập trung kinh tế.

• Hội đồng cạnh tranh xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát tập

trung kinh tế như thực hiện tập trung kinh tế trong trường hợp bị cấm, tập trung