Ảnh hưởng của Giáo lý Công giáo với gia đình
ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO LÝ CÔNG GIÁO
Bạn đang đọc: Ảnh hưởng của Giáo lý Công giáo với gia đình
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VÀ SINH SẢN CÓ TRÁCH NHIỆM Ở VIỆT NAM
Trong cuộc đời theo đạo, các tín hữu Công giáo thể hiện ra ở nhiều cấp độ: Theo đạo, giữ đạo và sống đạo. Sống đạo bây giờ cũng đòi hỏi những mức độ khác nhau: Sống đạo theo lề luật và sống đạo theo môi trường văn hóa, xã hội. Người Công giáo ở khu vực châu Á được kêu gọi “Sống đạo theo cung cách Á châu” (Ecclesia in Asia, số 10), còn người Công giáo Việt Nam được mời gọi: “Sống đạo theo cung cách Việt Nam” (Thư chung 2003, số 9). Chính sự sống đạo này làm thay đổi diện mạo đạo Công giáo và cũng ảnh hưởng sâu rộng tới văn hóa xã hội của nhiều quốc gia. Chúng ta hãy cùng nghiên cứu sự ảnh hưởng của giáo lý Công giáo đến đời sống hôn nhân, gia đình, và sinh sản có trách nhiệm ở Việt Nam.
1. Giáo lý Công giáo về hôn nhân và mái ấm gia đình
Hôn nhân là một vấn đề quan trọng đối với giáo hội Công giáo nên đã được nâng lên thành 1 trong 7 Bí tích. Sách giáo lý viết: “Hôn phối là nhiệm tích do Chúa Giêsu lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam, một nữ thành vợ chồng trong tình yêu thương, đồng thời ban ơn cho họ để họ xây dựng gia đình hạnh phúc và sinh sản con cái, góp phần vào công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa và xây dựng gia đình nhân loại mỗi ngày mới tốt đẹp hơn” (1).
Bộ Giáo luật năm 1983 dành hẳn một dung tích rất lớn là đề mục 7 với 111 điều từ điều 1055 đến điều 1165, để lao lý về hôn nhân và mái ấm gia đình, đấy là chưa kể phần tố tụng, tòa án nhân dân hôn nhân 37 điều từ 1671 đến 1707, trong khi hàng loạt Giáo luật chỉ có 1.752 điều .
Quan niệm của Giáo hội Công giáo cho rằng hôn nhân là một ơn gọi nên mang đặc thù thánh thiêng. Là ơn gọi như những ơn gọi dâng hiến, tu trì nên người Công giáo không được tránh né mà chỉ hoàn toàn có thể đáp : Xin vâng. Theo giáo lý Công giáo thì người Công giáo không được phép trốn kết hôn, tránh sinh con cháu và kiến thiết xây dựng một mái ấm gia đình niềm hạnh phúc ( trừ những người được ơn gọi dâng hiến ). Hiến chế “ Vui mừng và kỳ vọng ” viết rằng :
“Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau. Những điều ấy hết sức quan trọng đối với sự tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần rỗi đời đời của mỗi thành phần trong gia đình, quan trọng đối với phẩm giá, sự vững chãi, an bình và thịnh vượng của chính gia đình và của toàn thể xã hội loài người” (số 48).
Hôn nhân Công giáo là sự tích hợp giữa 1 người nam và 1 người nữ nên không đồng ý hôn nhân đồng tính cùng giới hay đa thê hoặc đa phu. Giáo hội lên án 1 số ít vương quốc được cho phép kết hôn giữa những người đồng tính, mặc dầu vẫn tôn trọng họ. Vì vậy đã có nhân viên cấp dưới công quyền là người Công giáo ở quốc tế chuẩn bị sẵn sàng đi tù chứ không làm giấy hôn thú cho người đồng tính. Cũng vì không chấp thuận đồng ý đa thê nên những người gia nhập đạo Công giáo mà có nhiều vợ cũng chỉ được phép chọn một bà vợ trong số đó để sống chung. Hôn nhân Công giáo được kiến thiết xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện. Nếu có bất kể sự ép buộc hay lừa gạt nào thì hôn nhân đều vô hiệu. Để bảo vệ nguyên tắc này, những linh mục trước khi làm phép cưới phải cẩn trọng tra xét đương sự trong tòa giải tội, xem có trọn vẹn tự nguyện không. Nếu phát hiện ra phải dừng việc chứng hôn lại .
Một đặc tính nữa của hôn nhân là sự bất khả phân ly. Điều 1056 của Giáo luật viết: “Những đặc tính chính yếu của hôn nhân là sự đơn nhất và sự bất khả phân ly, những đặc tính này có một sự bền vững đặc biệt trong hôn nhân Kitô giáo, vì có tính cách Bí tích”. Điều này có nghĩa là, hôn nhân Công giáo buộc cặp vợ chồng phải sống chung thủy với nhau suốt đời và họ không được phép ly hôn để kết hôn với người khác. Nếu vì lý do đặc biệt, họ không thể sống chung cùng nhau thì chỉ được phép ly thân mà thôi. Giáo lý Công giáo khuyên mọi người sống tiết dục (các bậc tu trì phải khấn khiết tịnh), cả trước, trong và sau hôn nhân để đảm bảo thủy chung suốt đời. Kinh thánh nhiều lần nhắc đến quy luật này. Chính Đức Giêsu khi trả lời những người biệt phái: có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không? Ngài đáp: “Các ông chưa đọc thấy chép rằng: từ đầu, Tạo hóa dựng nên người nam và người nữ. Vì thế, người nam sẽ bỏ cha mẹ, mà quyến luyến vợ mình, và cả hai sẽ thành một thể xác mà thôi. Như thế, không còn là hai thể xác, nhưng là một mà thôi. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Về gia đình, giáo hội Công giáo cũng coi gia đình là tế bào của xã hội và là Hội thánh tại gia. Sách giáo lý viết: “Gia đình được định nghĩa là một cộng đồng hiệp thông các ngôi vị, là tổ ấm trong đó mọi người cùng chung với nhau mọi sự, mọi người cùng chung đóng góp, cùng chia sẻ và cùng chung trìu mến thông cảm sâu xa. Sở dĩ gia đình Kitô giáo được gọi là một “Hội thánh tại gia” là vì mỗi gia đình Kitô hữu là một sự bày tỏ và thể hiện niềm hiệp thông trong Hội thánh” (2). Gia đình Công giáo có nhiệm vụ sống theo gương 5 chuyên của cộng đoàn Hội thánh nguyên thủy là chuyên cần giáo lý, vững chí hiệp thông, bền lòng phục vụ, vui thú nguyện cầu và cùng nhau làm chứng. Giáo hội đề cao những cử chỉ âu yếm, thân mật giữa vợ chồng và buộc tội người vợ hay chồng nếu từ chối những cử chỉ đó mà không có lý do chính đáng. Bổn phận của vợ chồng là sinh sản con cái không phải theo mục đích thông thường là nói dõi tông đường mà là cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng vũ trụ. Hiến chế “Gaudium et Spes” (Vui mừng và Hy vọng) số 50 viết: “Hôn nhân và tình yêu gia đình tự bản tính quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ… Bổn phận truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa và như trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài” (3).
Trước đây, trong Kinh thánh có nhắc đến lời chúc phúc cho loài người là “ Hãy sinh sản cho đầy mặt đất ” nên Giáo hội cũng không có số lượng giới hạn số con của một cặp vợ chồng và khoảng cách giữa những lần sinh. Nhưng sau này, Giáo hội có hướng dẫn đơn cử cho tương thích với thời cuộc. Thư chung năm 1992 của những Giám mục Nước Ta viết :
“Trong tình hình dân số hiện nay của thế giới nói chung và nước ta nói riêng, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế, không thể làm theo phương châm của người xưa “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, phương châm ấy có giá trị trong thời kỳ nông nghiệp “đất rộng người thưa”, ngày nay, loài người đã đầy mặt đất cần phải tính đến việc nuôi sống và giáo dục những mầm non của loài người. Đàng khác, mệnh lệnh sinh sản cho đầy mặt đất gắn liền với mệnh lệnh làm chủ mặt đất. Muốn thế thì đứa con sinh ra phải được nuôi nấng giáo dục nên người. Điều này đưa chúng ta vào những vấn đề cấp bách và nghiêm trọng hiện nay là vấn đề sinh sản có trách nhiệm và vấn đề giáo dục con cái ” (số 11).
Giáo hội đưa ra khái niệm “sinh đẻ có trách nhiệm”. Điều này ràng buộc các cặp vợ chồng tự quyết định số lần sinh, khoảng cách giữa các lần sinh chứ không phải ai khác. Họ chịu trách nhiệm điều này trước con cái và trước chính Thiên Chúa. Hiến chế “Vui mừng và hy vọng” viết:
“Bổn phận truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với Thiên Chúa Tạo hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận của mình với trách nhiệm của con người và của Kitô hữu. Tôn trọng, tuân phục Thiên Chúa, đồng tâm hiệp lực với nhau, họ sẽ tạo cho mình một phán đoàn ngay thằng: biết xét đến lợi ích riêng của họ cũng như những đứa con đã sinh ra hay tiên liệu sẽ có, nhận định về hoàn cảnh vật chất hay tinh thần của thời đại và bậc sống, sau hết biết nghĩ đến lợi ích của gia đình, của xã hội trần gian và của chính Giáo hội “ (số 50).
Như vậy, Giáo hội Công giáo trao quyền quyết định hành động cho những cặp vợ chồng khi đo lường và thống kê việc sinh con cháu vì quyền hạn con cháu, vì xã hội, vì mái ấm gia đình, vì Giáo hội và vì nghĩa vụ và trách nhiệm trước mặt Chúa nữa .
Để duy trì luật hôn nhân và gia đình, Giáo hội đã quy định chặt chẽ. Buổi đầu, đạo mới đến Thăng Long, lễ tối chỉ dành cho đàn ông, còn đàn bà, phụ nữ đi lễ ban ngày. Trong nhà thờ chia ra “nam tả, nữ hữu” đề không có chuyện trà trộn nam, nữ chỗ đông người hay thiếu ánh sáng. Tiến trình trước hôn nhân như việc học giáo lý hôn nhân và gia đình cho các bạn trẻ chuẩn bị kết hôn, chuẩn bị làm cha mẹ với thời gian khá dài. Điều 1067 giáo luật nêu: “Hội đồng giám mục phải ấn định những quy tắc về khảo hạch các đôi bạn, cũng như việc rao hôn phối và về những phương thế thích hợp khác để thực hiện những cuộc điều tra, những việc đó là cần thiết trước khi cử hành hôn nhân; một khi những quy tắc ấy đã được tuân giữ cẩn thận, cha sở có thể tiến hành việc chứng hôn”. Bởi Giáo hội ý thức rằng, gia đình là tế bào của xã hội thì cũng là cơ sở của Giáo hội. Nếu hôn nhân tan vỡ không chỉ đương sự rơi vào cảnh xa rời Giáo hội mà cả đôi bên nội ngoại, con cái cũng rất dễ mất sự hiệp thông với Giáo hội nữa.
2- Ảnh hưởng của đạo Công giáo đến hôn nhân và gia đình
2.1 – Ảnh hưởng trong hội đồng Công giáo
Nếu quan sát bên ngoài, thật khó phân biệt người theo đạo Công giáo và không Công giáo ( trừ người tu hành buộc mang y phục dòng tu ), nhưng nếu đi sâu vào khám phá đời sống của họ thì thấy những nét độc lạ lớn. Việc tuân giữ giáo lý, giáo luật Công giáo hình thành nếp sống của người có đạo. Nếp sống này chi phối hàng loạt tâm lý, hành vi và cả thói quen của họ nữa. Người Công giáo thường sống quây quần trong một khu, một làng ngay cả khi chưa có lệnh phân sáp của triều nhà Nguyễn. Nếu phải di tán đi đâu thì họ giữ nguyên tên làng cũ. Vì vậy hoàn toàn có thể thấy tên làng Cầu Cổ, Bùi Chu, Trung Lao … tại vùng đất lấn biển Nghĩa Hưng ( Tỉnh Nam Định ) hay những xứ Thành Phố Hà Nội, Tỉnh Thái Bình, Bùi Phát, Trà Cổ … tại những tỉnh Đồng Nai, TP HCM sau cuộc di cư 1954. Việc co cụm này không chỉ giúp cho họ giữ đạo dễ hơn mà cũng dễ cho con cháu khi đến tuổi lớn khôn gặp người có đạo để thành vợ, thành chồng. Tâm sự của những bậc cha mẹ có con trưởng thành thường là “ tìm được người có đạo để dễ giữ đạo sau này ”. Bởi trước đây, Giáo hội chỉ được cho phép kết hôn cùng đạo cho nên vì thế mới có câu ca ai oán :
“ Amen, lạy Đức Chúa Trời
Cầu cho bên đạo, bên đời lấy nhau .
Chắc chắn, đã có nhiều đôi không lấy được nhau chỉ vì nguyên do tôn giáo. Trường hợp của vua Bảo Đại được kết hôn với cô Theresa Nguyễn Thị Lan ( sau là Nam Phương Hoàng hậu ) năm 1934 là trường hợp đặc biệt quan trọng phải được mái ấm gia đình nhà gái có thế giá xin tận bên Tòa thánh. Mãi đến khi Công đồng Vatican 2 canh tân mới được cho phép kết hôn với người khác đạo. Không phải chỉ ở Huế, mà khắp nơi hội đồng cả người có đạo và ngoài đạo đều hoan hỉ :
“ Quý hồ chàng có lòng thương
Amen mặc thiếp, khói hương mặc chàng ” .
Nhưng với những bậc cha mẹ thì lấy người đồng đạo vẫn hơn, bởi không lo ngại việc đạo nghĩa của con cháu sau này. Đấy là chưa kể thủ tục hôn phối cho người khác đạo cũng mất thời hạn và phức tạp mà nếu không kiên trì, khó hoàn toàn có thể đi đến hiệu quả .
Nam nữ người Công giáo trong quan hệ yêu đương bị cấm không được quan hệ trước hôn nhân vì tội “ ăn cơm trước kẻng ” là tội nặng. Họ nhắc nhở nhau :
“ Mẫu đơn nở cạnh nhà thời thánh
Đôi ta trinh tiết cùng chờ đón nhau ”
Vùng Công giáo, khi trai gái yêu nhau, ngoài những thủ tục, nghi lễ phần đời, điều lo ngại nhất của hai bên dòng họ là chuyện thủ tục bên đạo. Phải tìm người làm chứng, phải xác nhận của linh mục nơi cư trú về thực trạng tôn giáo, hôn nhân, phải rao nhiều lần ( thường là 3 tuần ) cho hội đồng biết nhằm mục đích tránh thực trạng hôn nhân cận huyết, bị ép buộc, hay đương sự không phải là đơn thân … Ai mà biết phải báo lại cho linh mục xứ để dừng chứng hôn. Ai biết mà không trình báo cũng phạm tội nặng. Linh mục chứng hôn phải kiểm tra nhiều lần về giáo lý, về thực trạng hôn nhân, giấy đăng ký kết hôn, thậm chí còn cả sức khỏe thể chất sinh sản rồi mới làm lễ chứng hôn. Ngày làm lễ cưới diễn ra rất trang nghiêm, trước mặt cộng đoàn và mái ấm gia đình với những nghi thức mà giới trẻ lúc bấy giờ ưa thích vì có ý nghĩa ( ảnh trên ). Những lời thề hứa của đôi nam nữ trước linh mục và cộng đoàn là ràng buộc họ suốt đời phải thủy chung với nhau. Một người không phải là Fan Hâm mộ ngoan đạo lắm như nhà văn Nguyên Hồng vẫn phải tuân giữ. Nhà văn Lê Đại Thanh kể lại :
“Có một cô gái đẹp và lãng mạn mê anh vì đã đọc “Những ngày thơ ấu” của anh, nhưng Nguyên Hồng là một núi băng. Phạm Cao Củng, người chuyên viết chuyện kiếm hiệp cho Nhà xuất bản Mai Lĩnh đã rỉ tai Nguyên Hồng:
– Phải thương nó. Nó tương tư cậu …
Nguyên Hồng gặp cô gái xin lỗi và nói :
– Tôi là người Công giáo đạo gốc. Tôi lại là người cầm bút viết văn dạy người đạo đức. Tôi không hề lừa dối vợ tôi và làm hại đời cô .
Cô này đã khóc và sau đó đi Nam, rồi lấy chồng trong đó nhưng càng cảm phục Nguyên Hồng hơn” ( 4 ) .
Để giữ giáo luật, nhiều làng Công giáo cổ đã kiến thiết xây dựng hương ước với những lao lý ngặt nghèo về yếu tố này. Hương ước làng Vĩnh Trị ( Tỉnh Nam Định ) viết :
“Làng toàn tòng Công giáo chỉ được phép nhất phu nhất phụ thôi. Vậy ai còn vợ cả mà lấy vợ hai thì làng không ăn ngồi với nữa để khỏi làm gương xấu cho kẻ khác…
Ai thông dâm với vợ người có đủ chứng cớ thời hương hội lập biên bản phạt người đàn bà 1 đ00. Người đàn ông cũng vậy và truất ngôi 5 năm, tái phạm sẽ truất ngôi hẳn. Ai can tội hiếp dâm đàn bà và thông dâm với con gái dưới 16 tuổi ; ai thông dâm với người đàn bà đang có tang chồng ; bạn bè họ hàng thông dâm với nhau ; con cháu thông dâm với cha mẹ thời hương hội lập biên bản phạt 1 đ00 và truất ngôi trong làng và hương ẩm hẳn” ( 5 ) .
Hương ước làng Nam An (Hải Phòng) ghi: “Lại dân toàn tòng, theo luật tôn giáo, không được phép lấy vợ lẽ. Ai phạm tội đến cũng như tội thông dâm, nếu có con thì đứa con ấy cũng như ngoại tình. Con ngoại tình, con vợ lẽ là con giai khi đến tuổi nhập bạ thì phải nộp phạt cho làng là 5đ00” (6).
Chính vì thế, số vụ ly hôn nơi người Công giáo không đáng kể. Theo số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, những năm 1977 – 1982, mỗi năm trung bình cả nước có 5.672 vụ ly hôn. Nhưng đến năm 1991 tăng lên 22.049 vụ. Năm 1994 tăng lên 34.376 vụ. Năm 1995 là 35.684 vụ. Năm 2000 có 51.361 vụ, năm 2005 tăng lên 65.929 vụ và năm 2010 là 126.325 vụ. Như vậy, mỗi năm số vụ ly hôn đã tăng từ 10-12 %. Tại TP.HN, năm 2005 có 4.100 vụ ra tòa ly dị. 6 tháng đầu năm 2006 có 2.068 đôi ly hôn. Vậy mà tại làng Trung Thành ( xã Hải Vân, Tỉnh Nam Định ) nơi có 6.000 giáo dân sinh sống suốt 8 năm ( 1982 – 2000 ) chỉ có 2 cặp bỏ nhau. Ở xứ Hạ Hồi ( Thanh Trì, Thành Phố Hà Nội ) cũng có 1.500 nhân danh Công giáo nhưng từ năm 1945 đến nay chỉ có 2 đôi ly thân. Điều này là quý giá và mê hoặc của hôn nhân Công giáo. Nhiều người trẻ tuổi ngoài Công giáo muốn trở lại đạo để kết hôn với người Công giáo vì tin rằng hôn nhân mái ấm gia đình của họ vững chắc hơn. Theo Niên giám của Giáo hội Công giáo năm 2006 cả nước có 147.476 người lớn trở lại đạo thì số người gia nhập đạo để kết hôn với người Công giáo là 31.576 người chiếm tới hơn 1/5. Số người xin vào đạo ngày càng lớn. Năm 2008 có 35.096 người thì năm 2010 là 42.272 người và những nhà thời thánh, nhất là ở thành phố thì liên tục mở những lớp học cho đối tượng người dùng này mà lớp nào cũng đông hàng trăm người .
Các gia đình Công giáo được dạy dỗ phải yêu thương nhau nên thực trạng đạo đức ở những thành viên tương đối tốt. Hầu như rất ít có thực trạng con cháu ngược đãi cha mẹ hay cha mẹ ruồng bỏ con cháu. Nếu có xích mích, bất hòa thì cả hội đồng sẽ đến khuyên bảo và tìm cách trợ giúp vì mọi người coi đó là trách nhiệm của mình. Các chức sắc khi thấy trong hội đồng có rủi ro tiềm ẩn tôi phạm cũng lập tức cảnh báo nhắc nhở, ngăn ngừa như việc uống rượu ở Tây Nguyên trước kia. Giám mục Paul Seitz ( Kim ) khi coi sóc vùng này đã coi việc uống rượu say sưa nơi đồng bào Thượng là rủi ro tiềm ẩn tàn phá dân tộc bản địa này. Thư chung ngày 19-12-1958 viết :
“Trong bức Thư chung năm 1956, tôi đã giải thích cho anh em về vấn đề này.
Các cha xứ bạn bè đã vui sướng và chính tôi cũng hoan hỉ khi 1 số ít đông đã nhận thức cái tai hại đang rình rập đe dọa mình và sẵn lòng vâng nghe lời tôi
. Trong năm vừa qua, anh em đã cố gắng nhiều để bài trừ bệnh rượu. Hôm nay, tôi gửi lời khen ngợi anh em và tôi quả quyết rằng, Thiên Chúa đã hài lòng và chúc lành cho anh em.
Đây tôi chỉ nhắc hai điều : Không những không riêng gì hạn chế số ghè rượu bạn bè thường quen uống mà nhất là phải kiêng bỏ thứ rượu trắng .
Muốn được tiền, những con buôn không ngần ngại bán cho bạn bè với giá rất đắt, thứ thuốc độc giết hại nòi giống của đồng đội .
Phải phủ nhận đừng mua. Hãy trục xuất ra khỏi làng những ai mang rượu trắng đến bán. Hãy nói với những kẻ ấy rằng : đồng đội không muốn thứ sản phẩm & hàng hóa của ma quỷ nhưng chỉ muốn họ đem những thứ thuốc men, hàng vải, những vật phẩm hữu dụng và tốt, những thực phẩm. Và bạn bè sẽ thấy những con buôn không còn đem rượu trắng đến cám dỗ đồng đội nữa và họ sẽ thuận ý bán cho đồng đội những thứ khác .
Cũng như yếu tố thuốc phiện, hãy can đảm và mạnh mẽ nói với những người đàn anh và đại diện thay mặt chính quyền sở tại. Chính quyền chắc như đinh sẽ ủng hộ đồng đội giữ trọn những điều dốc quyết .
Anh em phải biết rằng, từ nay tôi truyền cho những linh mục không được ban phép Giải tội và những phép Bí tích cho những ai cố tâm mua và uống thứ rượu trắng để say sưa .
Hơn thế nữa, tôi nhắc lại, mỗi năm là những bậc đàn anh trong làng phải triệu tập đại hội để cùng nhau đọc lại Thư chung về bệnh rượu và tìm những quyết định hành động hợp thời về phương pháp tiêu diệt bệnh ấy trong mỗi làng. Hội nghị ấy là một huấn lệnh mà Giám mục bạn bè đã công bố nên phải tuân theo .
Hãy tin chắc rằng : điều kiện kèm theo thứ tư để người Thượng được sống sót là phải diệt trừ bệnh rượu ” .
Đứng trước thảm cảnh của nạn nghiện ma túy ngày này. Hồng y Phạm Đình Tụng, trong Thư chung ngày 22-10-1996 đã mời gọi :
“Tôi khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy chung tay, góp sức chặn đứng và tẩy sạch tệ nạn này ra khỏi gia đình và làng xóm chúng ta. Tôi đề nghị các Cha rao giảng về tác hại của tệ nạn này để mọi người hiểu rõ. Mỗi xứ họ cần có kế hoạch điều tra và phát hiện kịp thời số người nghiện hút. Các bậc cha mẹ phải thường xuyên theo dõi con em, không để chúng đi lại những nơi có nguy cơ bị lôi cuốn hay giao tiếp với những con nghiện.
Đối với những người đã trót nghiện, tất cả chúng ta hãy lấy niềm tin bác ái khuyên bảo và làm mọi cách giúp sức họ cai nghiện càng sớm càng tốt, nếu không bệnh của họ sẽ lây sang người khác một cách nhanh gọn như vết dầu loang” .
Tuy nhiên, giáo lý Công giáo cũng ràng buộc người tín hữu không được dùng những giải pháp tránh thai tự tạo. Thông điệp Humanae Vitae ( Sự sống con người ) :
“Cần phải loại trừ tất cả mọi hành động nhằm mục đích hoặc dùng như phương tiện để làm cho không thể sinh sản được như hành động trước khi giao hợp, hoặc đang lúc giao hợp hoặc trong lúc kết quả tự nhiên của việc giao hợp đang tiến triển. Cần phải loại từ việc trực tiếp vô hiệu hóa khả năng sinh sản nơi người nam hay người nữ, bất cứ tạm thời hay vĩnh viễn” (số 14).
Giáo hội chỉ gật đầu giải pháp tránh thai tự nhiên theo Ogino-Knauss hay Billings. Nhưng đây là giải pháp cũng không đơn thuần, yên cầu một quyết tâm rất cao vì thế nhiều đứa bé vẫn được sinh ra và được gọi là “ con của Ogino ” và cũng là vấn nạn liên tục được gửi đến những tờ báo Công giáo hay những linh mục và ở những vùng giáo, đây là yếu tố nan giải cho chính quyền sở tại khi triển khai kế hoạch hóa mái ấm gia đình. Chính quyền đã dùng đủ mọi cách như phạt hành chính, không cấp giấy khai sinh, cắt chỉ tiêu thi đua nhưng so với người Công giáo, luật đạo quan trọng hơn luật đời nên tình hình yếu tố kế hoạch hóa mái ấm gia đình nơi Công giáo rất khó thực thi .
Cũng có người Công giáo nhất là công chức liều mạng phá thai, điều hòa kinh nguyệt. Thế là họ bị vạ giết người. Mà tội thì hoàn toàn có thể tha chứ vạ rất khó tha và chỉ những giám mục hay giáo sĩ được ủy quyền mới được quyền tha vạ khiến họ và mái ấm gia đình ( những người biết sự vụ này mà không can ngăn hay đồng thuận ) phải đau khổ suốt đời vì không còn được hiệp thông với Giáo hội nữa. Năm năm nay là Năm thánh Lòng thương xót, Giáo hoàng Phanxicô đã ra đặc ân ban cho 1.000 linh mục được tha vạ tương quan đến việc phá thai nhưng do số lượng đông quá nên đã lan rộng ra cho mọi linh mục được quyền này và khi kết thúc Năm thánh này ngày 20-11-2016 lại liên tục được cho phép những linh mục được quyền tha vạ này .
Một xấu đi nữa là hôn nhân Công giáo buộc không được ly dị, nhưng có thực trạng vợ chồng không hề sống chung được với nhau nữa. Thế là ly thân và không được phép kết hôn nữa nếu người phối ngẫu với mình vẫn còn sống. Có người chẳng giữ được độc thân, họ đi bước nữa và lập tức bị phán quyết và không được sống trong ấn sủng của Giáo hội .
Để giảm thiểu những nỗi đau này, Giáo hoàng Phanxicô mới đây đang xem xét đơn gỉan thủ tục tuyên bố tiêu hôn và thông thoáng hơn đối với người ly dị, tái hôn. Trong Tự sắc Misis Judex Duminus Jesus (Chúa Giêsu thẩm phán nhân từ) mới công bố đầu tháng 8-2015 viết:
“Vì vai trò làm mẹ, Giáo hội cần thấy có bổn phận, vì sự thiện phải thể hiện sự biện phân thận trọng. Giáo hội biết rõ tình huống người ly dị tái hôn đi ngước lại Bí tích Hôn phối của Kitô giáo. Tuy nhiên, cái nhìn của Giáo hội nên xuất phát từ trái tim người mẹ, là trái tim, nhờ được Chúa Thánh thần sinh động hóa, luôn tìm kiếm điều cứu rỗi người ta…Thật vậy, những người này không hề bị vạ tuyệt thông và tuyệt đối họ không bị đối xử như thế: họ vẫn là thành phần của Giáo hội” (7).
Trong Thông điệp Amoris Laetitia ( Niềm vui Tin mừng ), Giáo hoàng Phanxicô đã nhu yếu Giáo hội không được bỏ rơi những người đã ly dị, tái hôn. Thậm chí ngay những linh mục đã hồi tục mà chưa được phép, Giáo hoàng cũng đi thăm và trò chuyện với họ. Điều này đã gây ra phản ứng ngay trong hàng giáo sĩ hạng sang. Bốn vị Hồng y, đứng đầu là Hồng y Raymond Burke đã gửi kháng nghị thư nhu yếu Giáo hoàng lý giải rõ Thông điệp này vì gây chia rẽ trong Giáo hội và trái với truyền thông online của Giáo hội Công giáo là hôn nhân một vợ, một chồng và không được phân ly. Trong khi có Giám mục như Papamanolis của Hy Lạp gọi hành vi của bốn Hồng y trên là dị giáo và ly giáo .
2.2 – Ảnh hưởng của giáo lý Công giáo với hôn nhân, mái ấm gia đình ra ngoài xã hội
Bị chi phối bởi giáo lý Công giáo nên nhiều tín hữu có lối sống khiến người ngoại đạo cảm phục. Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn – Giám đốc trại phong Quy Hòa, người đã trực tiếp tiêm trực khuẩn Hansen vào người để chứng tỏ rằng, bệnh phong cùi không lây trực tiếp khi tiếp xúc, giúp xóa đi mặc cảm của cả người bệnh và hội đồng lúc gặp gỡ với nhau. Ông được đề xuất làm hồ sơ để được phong anh hùng lao động và nhận giải Ghandi với số tiền khá lớn nhưng ông khước từ vì cho rằng, mình là Giám đốc, lại là đảng viên nên ship hàng là nghĩa vụ và trách nhiệm, trong khi đó những nữ tu dòng Phaolô ở trại không lương mà họ còn tận tụy hơn ông, nên họ xứng danh được khen thưởng hơn ông. Ông nói :
“Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không muốn những lời ngợi ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại. Nhiều tấm gương của các nữ tu này được bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur Charles Antoine, nguyên là Giám đốc trại có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy hố xí tắc mà không ai dám dọn. Bà liền thọc tay xuống và moi lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống”(8).
Chính vì vậy, sau khi nghỉ hưu, bác sĩ Ngoạn do cảm phục lối sống của các nữ tu mà đã âm thầm trở lại đạo vào năm 2012. Cũng theo giáo huấn của đạo nên người Công giáo cũng có cách ứng xử khác với những người bình thường. Trường hợp Nam Phương hoàng hậu là một ví dụ (ảnh dưới). Bà đã sinh cho vua Bảo Đại 5 người con nhưng vua quen kiểu sống đế vương phóng túng nên vẫn đi lại với những người phụ nữ khác. Bà sống ly thân với cựu vua nhưng vẫn luôn quan tâm đến nhà vua. Bà viết thư cho cô Lý Lệ Hà- một hoa khôi xứ Bắc đang chung sống với vua với lời lẽ rất tôn trọng chứ không hề ghen tuông. Thư viết: “Chị ở xa Đức Cựu hoàng hàng mấy vạn dặm trường nhưng chị biết em hết sức chăm sóc Cựu hoàng đế ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông Cựu hoàng. Đức Từ cung Thái hậu và chị trọn kiếp nhớ thương em” (9). Có lẽ cảm kích về hành động này của Nam Phương Hoàng hậu mà về cuối đời, Bảo Đại đã gia nhập đạo Công giáo với tên thánh là Jean Robert.
Do hôn nhân và gia đình Công giáo có những lợi thế là vững chắc trong khi hôn nhân, mái ấm gia đình bên ngoài xã hội mỏng mảnh giòn dễ vỡ nên có một xu thế là không ít mái ấm gia đình bên ngoài Công giáo tìm kiếm người Công giáo để kết hôn mặc dầu thủ tục để kết hôn với người có đạo khá phiền hà và mất nhiều thời hạn phải kiên trì như học hỏi về đạo ( lớp tân tòng ), học về giáo lý hôn nhân và mái ấm gia đình ( lớp sẵn sàng chuẩn bị kết hôn ). Đấy là chưa kể đến sự phản đối của mái ấm gia đình những người trở lại. Giáo sư Nguyễn Khắc Dương, xuất thân từ dòng dõi Nho gia ở Nghệ Tĩnh, đã kể lại việc mình sau khi gia nhập đạo về quê năm 1948 như sau :
“Vừa trông thấy tôi, bà gần như chồm tới và gần như ngã quỵ ôm lấy chân tôi khóc nức nở mà than rằng: Cháu ơi, cô hỏi cháu, cha ông cháu có tội tình chi, mà cháu cúi đầu cho họ dội nước để rửa sạch tội Tổ tông. Thật là nhục mạ đến tổ tiên họ Nguyễn Khắc nhà ta. Chớ cái tội cháu bỏ đạo ông bà, không thờ cúng tổ tiên, thì nói thật, lấy cát chà, dao cạo cũng không sạch, nói gì đến dội nước” (10).
Một trường hợp khác mà Giám mục Allys ở Huế đã kể lại, đó là sự phản ứng của mái ấm gia đình cô Nguyễn Thị Ngọc năm 1916. Ông viết :
“Khó mà tưởng tượng được sự tức giận của người cha và sự đau khổ của bà mẹ, khi biết rằng con mình đã bỏ trốn. Họ liền cùng với bạn bè đi tìm con. Trong nhiều ngày, họ chạy hỏi nơi này nơi khác và nhất là rình quanh các tu viện mà họ nghi là có con mình đang lẩn trốn. Cuối cùng, họ được thư của Nguyễn Thị Ngọc cho biết mình đang ở trong dòng kín Huế và sẽ không ra khỏi đó cho đến khi thành Kitô hữu… Trước lời tuyên bố đó, bà mẹ nổi giận, gào thét và đe dọa khi thấy con mình không lay chuyển, bà chồm tới, nắm lấy tóc con lôi ra khỏi nhà khách của đan viện. Để chống lại, Nguyễn Thị Ngọc liền nằm xuống đất và làm cho tất cả mọi nỗ lực của người mẹ nóng giận trở thành vô ích” (11).
Giáo lý Công giáo coi phôi thai được hình thành từ sự giao hợp đã là con người nên khi nghe có trường hợp phá thai dù chỉ là điều hòa kinh nguyệt, người Công giáo cũng tìm gặp những bà mẹ lỡ mang thai đó khuyên bảo giữ cái thai lại. Nếu đương sự không có điều kiện kèm theo, họ đưa về những nhà mở để chăm nom, nuôi dưỡng cho đến khi mẹ tròn, con vuông. Nhiều nhà mở này được lập ra khắp nơi do những giáo xứ, dòng tu tổ chức triển khai. Thậm chí 1 số ít cá thể người Công giáo cũng làm như vậy. Nước ta được xếp vào một trong 5 nước có tỷ suất phá thai cao nhất quốc tế với khoảng chừng 300.000 vụ / năm thì những hoạt động giải trí trên của người Công giáo rất ý nghĩa. Một số cá thể người Công giáo còn đi thu gom những thai nhi từ những bệnh viện, phòng khám tư nhân về khâm liệm, chôn cất tử tế như bà Nguyễn Thị Nhiệm ( Sóc Sơn, TP. Hà Nội ), ông Nguyễn Văn Bao ( Nghĩa Thắng, Tỉnh Nam Định ), ông Tống Phước Phúc ( Nha Trang, Khánh Hòa ) … đã chôn cất cả vạn thai nhi được dư luận khen ngợi. quản trị nước Nguyễn Minh Triết cũng đã gửi thư khen vợ chồng anh Tống Phước Phúc năm 2006 vì những cử chỉ nhân văn trên. Chỉ riêng đạo Công giáo mới có việc làm này vì họ coi thai nhi cũng là người và là những linh hồn thánh thiện nữa .
Giáo hội cảnh báo nhắc nhở xã hội ngày này là “ một nền văn hóa truyền thống sự chết ”, chiết tự từ “ Death ” ( D : Divorce – Ly dị ; E : Euthanasia – Chết êm dịu ; A : Abortion – Phá thai ; T : Total Birth Control : Kiểm soát sinh sản ; H : Homosexual union – Kết hôn đồng tính ). Một đặc thù của nền văn hóa truyền thống sự chết đó là phá vỡ cân đối tự nhiên về giới tính, lao động mà nhiều nước đang đương đầu khi hàng chục triệu người trẻ tuổi không hề lấy được vợ, khi mà số sinh ít hơn số tử gây thiếu vắng lao động trầm trọng như Trung Quốc, Đức, Nhật và cả nước ta nữa. Chính những thách đố này, khiến nhiều xã hội phải quay lại sự cân đối tự nhiên trong sinh sản. Ngay dự thảo luật về dân số nước ta lúc bấy giờ cũng được cho phép những cặp vợ chồng tự lựa chọn số con và khoảng cách giữa những lần sinh. Dự thảo này rất giống với ý niệm “ sinh sản có nghĩa vụ và trách nhiệm ” của Giáo hội Công giáo .
Như vậy có thể thấy giáo lý của đạo Công giáo không chỉ ảnh hưởng đến hôn nhân và gia đình cộng đồng Công giáo mà càn ảnh hưởng sang cả cộng đồng xã hội nữa. Mặc dù lối sống đó cũng có những điểm gây khó khăn cho tín hữu nhưng ưu điểm nhiều hơn và là điểm sáng của tôn giáo này. Nó chứng minh nhận định của Nghị quyết 25 “Về công tác tôn giáo” của Đảng năm 2003 là đúng đắn: “Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
TP. Hà Nội, Mùa Vọng năm 2021
Chú thích :
* Phó Viện trưởng Viện Trí Việt ( IVM ), Giám đốc Trung tâm Tôn giáo học
1- Bùi Văn Đọc: Sống niềm tin, Giáo xứ Bùi Chu xuất bản 1992, tr.46
2- TGM Nha Trang: Giáo lý vào đời, tập 1, Nxb Tôn giáo 1999, tr.118
3- Thánh Công đồng Vatican 2, Giáo hoàng học viện Đà Lạt ấn hành 1972, tr.82-803.
4 – Báo Văn Nghệ số 30 ngày 27-7-1996 .
5- Kỷ yếu Tọa đàm “Thờ cúng tổ tiên” ở Huế, TGM Huế ấn hành năm 1998, tr.68
6- Phạm Huy Thông: Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn hóa Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2012, tr.81; tr.152
Xem thêm: Trắc nghiệm GDCD 10 Bài 12 (có đáp án): Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình (phần 2)
7 – Vietcatholic. News ngày 3-8-2015
8- Giám mục Nguyễn Văn Sang: Đối thoại tôn giáo, tập 2, Nxb Tôn giáo 2007, tr.327
9- Lý Nhân Phan Thứ Lang: Vua Bảo Đại- vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, Nxb Đà Nẵng 2004, tr.192
Source: https://thoitrangredep.vn
Category: Cưới Hỏi