Việc xác định vợ chồng vào cuối năm 1960

Hỏi về việc xác định vợ chồng vào cuối năm 1960. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1960 nhưng không đăng ký kết hôn có được công nhận là vợ chồng không?

Hỏi về việc xác định vợ chồng vào cuối năm 1960. Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1960 nhưng không đăng ký kết hôn có được công nhận là vợ chồng không?

Tóm tắt câu hỏi:

Dạ e muốn hỏi là: Pháp luật dân sự Việt Nam quy định như thế nào về việc xác định vợ chồng vào cuối năm 1960 ở 2 miền Nam- Bắc. Pháp luật quy định như thế nào về việc thừa kế giữa vợ chồng đối với trường hợp chồng có nhiều vợ và chưa đăng ký chính thức (xét với 2 trường hợp ở 2 miền)? Em cảm ơn nhiều ạ?

Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

– Nghị quyết số 35/2000/QH10;

– Luật hôn nhân và gia đình 2000 ; – Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.

2. Luật sư tư vấn:

Theo điểm a, b mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000:

Xem thêm: Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam

“ a ) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực thực thi hiện hành mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn ; trong trường hợp có nhu yếu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo lao lý về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ; b ) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày 01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kèm theo kết hôn theo pháp luật của Luật này thì có nghĩa vụ và trách nhiệm đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực hiện hành cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003 ; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có nhu yếu ly hôn thì Tòa án vận dụng những lao lý về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để xử lý. Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp lý không công nhận họ là vợ chồng ”.

hoi-ve-viec-xac-dinh-vo-chong-vao-cuoi-nam-1960

>>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình qua tổng đài: 1900.6568

 Vì vậy theo điểm a mục 1 Nghị quyết số 35/2000/QH10 các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3 tháng 1 năm 1987 thì được Nhà nước khuyến khích đăng ký kết hôn. Trường hợp có đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng được tính từ thời điểm hai người bắt đầu chung sống với nhau. Nếu không đăng ký kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn Tòa án vẫn thụ lý và giải quyết như trường hợp vợ chồng có đăng ký kết hôn xin ly hôn. Do đó, các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 3 tháng 1 năm 1987 dù có đăng ký kết hôn hay không vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Về thừa kế so với trường hợp có nhiều vợ, tại điểm a mục 4 Nghị quyết 02 / HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 pháp luật :

“ a ) Trong trường hợp một người có nhiều vợ ( trước ngày 13-01-1960 – ngày công bố Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 – so với miền Bắc ; trước ngày 25-3-1977 – ngày công bố hạng mục văn bản pháp lý được vận dụng thống nhất trong cả nước – so với miền Nam và so với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập trung ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực thực thi hiện hành pháp lý ), thì toàn bộ những người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thức nhất của toàn bộ những người vợ. ”

Như vậy, trường hợp một người có nhiều vợ trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 so với miền Bắc và trước ngày 25 tháng 3 năm 1977 so với miền Nam thì tổng thể những người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng.