NHỮNG LƯU Ý SAU KHI TIÊM VACCINE COVID 19 – Nhận biết sớm các dấu hiệu huyết khối với hội chứng giảm tiểu cầu sau khi tiêm vắc-xin phòng COVID-19

Sau tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19, đặc biệt quan trọng từ ngày thứ 4, nếu Open những tín hiệu tương quan đến biến chứng huyết khối – giảm tiểu cầu, cần phải đến ngay cơ sở y tế gần nhất hoặc cơ sở y tế tiêm ngừa để được thăm khám, tham vấn và trị liệu. Thời gian theo dõi sau tiêm vắc-xin sẽ là 30 ngày .
Vào ngày 13/4/2021, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ ( FDA ) và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh ( CDC Hoa Kỳ ) ý kiến đề nghị tạm dừng việc sử dụng vắc-xin AD26. COV2 S Johnson và Johnson ( JJ ) để cho phép tìm hiểu 1 số ít trường hợp mắc bệnh nặng huyết khối với giảm tiểu cầu xảy ra sau khi tiêm chủng. Thông báo này được đưa ra sau những báo cáo giải trình bắt đầu về những sự kiện tương tự như ở những người nhận vắc-xin CHaDOx1 nCov-19 AstraZeneca ( AZ ) bên ngoài Hoa Kỳ. Các đặc thù lâm sàng và xét nghiệm của TTS gần đây đã được báo cáo giải trình. Hiện nay được CDC Hoa Kỳ và FDA gọi là huyết khối với hội chứng giảm tiểu cầu ( TTS : Thrombotic with thrombocytopenia syndrome ) .
Biến chứng huyết khối sau khi tiêm vắc-xin phòng COVID-19 là hiếm gặp

Tỷ lệ huyết khối sau tiêm vắc-xin phòng COVID-19 là hiếm gặp, cụ thể với AstraZeneca là 4,6/1 triệu liều tiêm thứ nhất, vắc-xin Pfizer-BioNTech là 0,2/1 triệu liều tiêm thứ nhất. Huyết khối sau tiêm vắc-xin AstraZeneca chủ yếu gặp ở nữ. Tỷ lệ đông máu sau tiêm vắc-xin AstraZeneca ở người trẻ cao hơn so với người lớn tuổi, đặc biệt lứa tuổi 20-29 tuổi. Sau tiêm vắc-xin AstraZeneca tỷ lệ đông máu dường như ít xảy ra ở người trên 60 tuổi, chỉ khoảng 0,2/1 triệu liều tiêm đầu.

Biến chứng đông máu sau tiêm vắc-xin AstraZeneca nhờ vào vào yếu tố di truyền, bệnh nền, lối sống, thuốc đang dùng, yếu tố V Leiden. Cơ chế bệnh sinh được cho là sự hình thành những kháng thể kháng yếu tố 4 tiểu cầu ( PF4 ), gây tiêu thụ tiểu cầu dẫn đến số lượng tiểu cầu thấp và hình thành huyết khối .
Những tín hiệu tương quan đến biến chứng huyết khối cần phải được theo dõi
Sau khi tiêm vắc-xin từ 24-48 giờ, nếu người được tiêm có những triệu chứng như sốt, stress, nhức đầu hoặc đau cơ mức độ từ nhẹ đến trung bình thường không gợi ý đến biến chứng huyết khối với giảm tiểu cầu. Đây là những phản ứng thường gặp sau tiêm chủng .
Sau tiêm vắc-xin phòng COVID-19, bạn cần theo dõi tại nơi tiêm 30 phút và liên tục tự theo dõi sức khỏe thể chất 30 ngày sau đó. Các tín hiệu sớm tương quan đến biến chứng huyết khối – giảm tiểu cầu sau tiêm vắc-xin phòng COVID-19 gồm có :

1. Thường xuất hiện từ ngày thứ 4 cho đến ngày thứ 30 sau tiêm vắc-xin. Khoảng thời gian cao điểm cho các triệu chứng ban đầu là ngày 6 đến ngày 14. 

2. Các triệu chứng biểu lộ bắt đầu thường ở mức độ nặng, dai dẳng và tái diễn .
3. Các triệu chứng thường gặp :
– Huyết khối mạch máu não, nội tạng và phổi : Nhức đầu kinh hoàng ; Đau bụng, đau lưng ; Buồn nôn và nôn ; Thay đổi thị lực ; Thay đổi trạng thái ý thức như cáu gắt, buồn rầu, hay giận vô cớ, ngủ gà và lơ mơ ; Đau ngực và khó thở ; Sưng chân và đau chân, tăng hơn khi hoạt động .

– Giảm tiểu cầu từ nhẹ đến nặng: Vết bầm tím ngoài da có đặc điểm: Dạng chấm, dạng mảng, dạng u máu; Màu đỏ tươi, tím bầm, màu vàng nhạt; Khi ấn hoặc đè vào vết bầm không biến mất; Không đau và xuất hiện tự nhiên. Chảy máu răng, miện tự nhiên hoặc sau chải răng. Chảy máu mũi, xuất huyết kết mạc mắt tự nhiên. Tiểu máu, đi cầu phân đen hoặc máu tươi. Kinh nguyệt bất thường và rong kinh kéo dài ở phụ nữ. Xuất huyết có thể biểu hiện cùng lúc dưới da, niêm mạc và nội tạng.

Khi có những tín hiệu trên sau tiêm ngừa từ ngày thứ 4, cần phải đến ngay cơ sở y tế gần nhất hoặc cơ sở y tế tiêm ngừa để được thăm khám, tham vấn và trị liệu .
Tại cơ sở y tế khi tiếp đón người tiêm ngừa vắc-xin hoài nghi có biến chứng, việc làm bắt đầu cần thăm khám nhìn nhận vừa đủ theo hướng dẫn của Bộ Y tế và lưu ý lấy máu trước khi triển khai bất kể can thiệp điều trị nào như IVIG, có năng lực gây nhiễu với những xét nghiệm chẩn đoán .

PGS.TS. Huỳnh Nghĩa – Phó Trưởng khoa Y, Đại học Y dược TP.HCM