Một số phong tục tập quán về hôn nhân, cưới xin – Báo Nam Định điện tử

nam định – mảnh đất – con ngườiMột số phong tục tập quán về hôn nhân gia đình, cưới xinỞ Nam Định còn lưu truyền, phổ cập những câu dân ca, ca dao quen thuộc, ví dụ điển hình : ” Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy ” ; ” Môn đăng, hộ đối “, ” Cưới vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông “, ” trai khôn kén vợ chợ đông “, ” gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân “, ” nuôi lợn thì phải vớt bèo, lấy vợ thì phải nạp cheo cho làng “, ” ma chê cưới trách ” … phản ảnh những ý niệm, mục tiêu cùng những phong tục tập quán của người Việt nói chung, của dân cư Nam Định nói riêng xung quanh việc hôn nhân gia đình .

Cũng như ở nhiều miền quê khác, người ta thấy ở Nam Định, theo phong tục xưa, để trở thành vợ chồng, đôi trai gái phải trải qua rất nhiều nghi lễ : so tuổi; Chạm ngõ (Nạp thái); Ăn hỏi (Vấn danh); Xin dâu (Nạp tệ): Rước dâu (Thân nghinh), Nhập phòng (Hợp cẩn); Lại mặt (Nhị hỷ).

Kén chọn con dâu, con rể : năng lượng sinh đẻ của người con gái, con trai là chăm sóc tiên phong của mái ấm gia đình, cha mẹ. Không thiếu những tiêu chuẩn, hay nhận xét đối tượng người tiêu dùng qua tiêu chuẩn cơ bản này được tổng kết đơn cử, truyền đời, dễ nhớ, thuộc : ” Lưng chữ cụ, vú chữ tâm “, ” đàn bà thắt đáy sống lưng ong, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con “. Tiêu chuẩn đó vừa biểu lộ qua bản thân đối tượng người tiêu dùng vừa nghiệm qua ( hay có tương quan liên tục, tiềm tàng ) dòng, giống ( gien – theo ý niệm văn minh ) ” lấy gái phải chọn dòng “, ” lấy con xem nạ ( mẹ ) “, ” làm rể nơi nhiều con ” … Mục đích này xuyên suốt và bộc lộ qua nhiều khâu, nhiều tập tục của việc cưới xin : từ chọn người làm mối mai, đến tục lệ ” trải chiếu ” cho cặp vợ chồng đêm tân hôn phải là người mau mắn, song toàn trong sinh đẻ, trong đời sống vợ chồng .
” Môn đăng, hộ đối ” là mối bận tâm về gia cảnh, thế lực, vai vế, thứ bậc của hai bên mái ấm gia đình, dòng họ có tương ứng không. Không phải ngẫu nhiên mà tục ngữ ca dao có những câu ” nồi nào, vung ấy “, cũng như trong những gia phả của nhiều dòng họ ở Nam Định gặp những câu, những đoạn ghi chép khá tỷ mỷ về thế lực nhà con dâu, nhà con rể – bộc lộ khá tường tận mối chăm sóc này .
” Quyền lợi ” vật chất, niềm tin ( hay Gianh Giá, sĩ diện ) của cô dâu tương lai, của mái ấm gia đình nhà gái với họ nhà trai, trước hội đồng bộc lộ qua tục Sêu tết ; Thách cưới .
Sêu tết : là việc đi lại, thăm nom, giúp công, giúp của mà chàng trai phải thực thi với nhà gái sau lễ chạm ngõ. Những ngày nhà gái có giỗ, tết, hay ma chay, cưới xin, chàng trai cũng tuỳ mùa, việc mà có lễ đi ” sêu “. Chỉ sau thời hạn đi lại sêu tết, không có điều tiếng gì xảy ra thì hai họ bàn đến lễ cưới .
Thách cưới : là những nhu yếu niềm tin, vật chất nhà gái đưa ra ( yên cầu = thách ) nhà trai chuẩn bị sẵn sàng, phân phối để sẵn sàng chuẩn bị cho lễ cưới, cho cô dâu về nhà chồng. Có thách cưới người con gái mới không bị coi là ” ế “, là ” cho không “. Thậm chí, thách cưới càng cao, càng cầu kỳ thì càng tỏ ra con gái là có giá .

Nạp cheo  hay là việc các đám cưới phải nạp tiền hay hiện vật cho làng là phong tục liên quan đến  quyền lợi  (hay khía cạnh hành chính, kinh tế) của làng xã trong hôn nhân. Việc các điều luật của nhà nước thời Lê, Nguyễn cấm các làng xã lợi dụng tục “cheo” để đòi hỏi, xà xẻo, cũng như các điều hạn chế trong các hương ước cải lương đầu thế kỷ XX, chứng tỏ sự phổ biến, dai dẳng của tục “cheo” cúng việc chính quyền làng xã lạm dụng tập tục này

Pháp luật nhà nước từ thời Lê, Nguyễn, những phong tục, hương ước của những làng xã Nam Định hiện còn, đều nỗ lực củng cố, tăng cường chính sách ngoại hôn. Trong những trường hợp vi phạm bị kết tội loạn luân, có nơi bị đuổi ra khỏi hội đồng làng .
Bên cạnh những đám cưới thường thì, trong những thực trạng đơn cử còn có : Đám cưới chạy tang ; Ở rể
Luật nhà nước thời phong kiến cũng như tục lệ của làng xã không cho phép cưới hỏi khi trong nhà phải để tang những bậc thân từ 1 đến 3 năm, vì bị coi là phạm đạo hiếu. Để tránh những trường hợp bị cấm hay bị chê cười như vậy, những đôi trai gái đã trải qua những nghi lễ chỉ còn đợi ngày làm lễ cưới, những cặp đã ” đứng tuổi ” ( nhất là với phái đẹp ) nếu chờ hết tang sẽ lỡ thì tổ chức triển khai cưới chạy tang .
Cưới chạy tang là làm lễ cưới khi bậc thân trong nhà phải để tang từ 1 năm trở lên hấp hối hoặc chết, nhưng chưa nhập quan, chưa làm lễ thành phục. Cưới chạy tang lược bớt những lễ. Sau lễ đón dâu là phát tang. Nhiều làng ở Nam Định, sau cưới chạy tang, vợ chồng mới cưới không được quan hệ trong vòng 100 ngày .
Đối với người Việt, từ lâu khi chính sách cư trú bên nhà chồng đã thống trị, trở thành lẽ thường thì vẫn có những trường hợp sau hôn nhân gia đình chú rể đến ở nhà vợ. Trường hợp này xảy ra ở mái ấm gia đình chỉ có con gái, nhất là chỉ có một con gái, cha mẹ mong ước có chàng rể có điều kiện kèm theo ( là con thứ trong mái ấm gia đình có anh em trai ) để hoàn toàn có thể gánh vác thay việc làm của con trai trong nhà gái ( hầu hết là đỡ đần trực tiếp cha mẹ vợ lúc già cả, hương khói thờ cúng ). Tuy nhiên, không phải chàng trai nào cũng chịu đi ở rể. Những trường hợp ở rể thường rơi vào những chàng trai mồ côi cha mẹ, không có họ hàng, nhà nghèo hoặc là con thứ những nhà khó khăn .

Đối với Giáo dân –  phần cư dân đông đảo của Nam Định từ hàng mấy trăm  năm qua, việc cưới xin là một trong 7 phép cơ bản được coi là bí tích (Thánh tẩy, Thêm sức, Thánh thể, Sám hối, Xức dầu, Truyền chức, Hôn phối).

Bí tích hôn nhân gia đình là sự nhìn nhận của Chúa so với việc chung sống trọn đời của đôi nam nữ đã chịu phép rửa tội. Bất cứ đôi tân hôn nào trước khi đi đến hôn nhân gia đình đều phải nhận phép bí tich này .

Theo: Địa chí Nam Định