phong tục cưới hỏi của người việt ở miền bắc – Tài liệu text
phong tục cưới hỏi của người việt ở miền bắc
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625 KB, 63 trang )
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
TRẦN PHƯƠNG LINH
PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI
VIỆT Ở MIỀN BẮC
Chuyên ngành: Việt Nam học
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn khoa học: Th.S Vũ Ngọc Doanh
HÀ NỘI, 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ThS, GVC Vũ Ngọc Doanh đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Đồng thời, tôi
cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các quý thầy cô trong khoa Ngữ Văn,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy và trang bị cho tôi những kiến
thức cơ bản trong học tập nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Do trình độ hạn chế nên trong quá trình hoàn thành khóa luận khó tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong sự chỉ bảo thêm của quý thầy cô, sự góp ý
chân thành của bạn bè để giúp tôi hoàn thành và đạt được kết quả tốt hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Phương Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này
là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của ThS,
GVC Vũ Ngọc Doanh. Kết quả thu được là hoàn toàn trung thực và không
trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trần Phương Linh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cưới hỏi là phong tục tốt đẹp, mang đậm bản sắc của người Việt. Đó là
một trong bốn nghi lễ quan trọng và được xã hội quan tâm nhiều hơn cả. Ông
bà ta đã dạy rằng: “Trai khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng”, điều này cho thấy
việc xây dựng hạnh phúc gia đình đã trở thành một quy luật tất yếu khi con
người bước vào tuổi trưởng thành. Ở đời, hạnh phúc nhất là trải qua những
khoảnh khắc trong ngày hôn lễ. Nghiên cứu về phong tục cưới hỏi phần nào
giúp ta hiểu được về một lễ nghi thiêng liêng của dân tộc, mặt khác cho ta
thêm yêu, tự hào về đời sống văn hóa- tinh thần đặc sắc này.
Cưới hỏi thường phải trải qua nhiều bước tương đối khắt khe và thực
hiện các lễ nghi quan trọng của lễ giáo phong kiến. Tuy nhiên, một số lễ nghi
trong cưới hỏi ngày nay đã bị biến đổi đi nhiều, gây lãng phí và dần làm mất
đi vẻ đẹp vốn có của nó. Thực trạng này đã và đang được dư luận xã hội lên
án, phê phán. Điều này cho thấy sự cần thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách
làm của nhân dân trong việc tổ chức lễ cưới sao cho phù hợp với cuộc sống và
phong tục, tập quán của nước ta để cưới xin thực sự là ngày vui, ý nghĩa của
đôi lứa, gia đình, người thân và bạn bè.
2. Lịch sử vấn đề
Cưới hỏi là một đề tài không phải là mới. Đã có rất nhiều tên tuổi nổi
tiếng viết về phong tục cưới hỏi của người Việt. Tiêu biểu như:
Hồ Sỹ Tân, Thọ mai gia lễ.
Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nhà xuất bản văn hóa thông
tin, Hà Nội.
Phạm Côn Sơn, Gia lễ xưa và nay.
Lê Như Hoa (1998), Hôn lễ xưa và nay, Nhà xuất bản văn hóa thông
tin, Hà Nội.
Những công trình nghiên cứu này là tiền đề, là cơ sở cho tác giả tham
khảo và viết được bài nghiên cứu này.
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phong tục cưới hỏi của người Việt ở miền Bắc
Phạm vi nghiên cứu: Phong tục cưới hỏi của người Việt ở miền Bắc
xưa (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) và nay (từ đầu thế kỉ XX đến nay).
4. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
Giúp cho ta có cái nhìn sâu, rộng và toàn diện về phong tục cưới hỏi
của người Việt xưa và nay.
Thấy được đây là một nét văn hóa tốt đẹp của người Việt từ xưa đến nay.
Đề xuất một số giải pháp để giữ gìn, bảo tồn và phát huy trên cơ sở
không làm biến dạng đi phong tục cưới hỏi của người Việt nói chung và
phong tục cưới hỏi ở miền Bắc nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát và điền dã
Tổng hợp và tích lũy tư liệu
So sánh và phân tích
Truy vấn thông tin Internet
6. Đóng góp của khóa luận
Bổ sung vào nghiên cứu giá trị văn hóa tốt đẹp trong phong tục cưới
hỏi của người Việt ở miền Bắc.
Đề xuất những định hướng, biện pháp để giữ gìn phong tục văn hóa tốt
đẹp này, cần phải có sự tiếp nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Phong tục cưới hỏi của người Việt xưa (từ thế kỉ X đến thế
kỉ XIX).
Chương 3: Phong tục cưới hỏi của người Việt nay (từ thế kỉ XX đến nay).
2
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hôn nhân là gì?
Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, hôn nhân là sự liên kết
tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà mà không vì
một mục đích nào khác. Ngoài khái niệm trên, hiện nay, một số luật gia ở
châu Âu và Mỹ quan niệm: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người
nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” hoặc: “Hôn nhân là hành vi
hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cách
là vợ chồng”.
Theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: “Hôn
nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” (Điểm 6, Điều 8). Còn
theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà nội
hôn nhân được hiểu là: “Sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hoà thuận”.
Hôn nhân qua các khái niệm này đều phản ánh năm đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, tính tự nguyện trong hôn nhân: Hôn nhân là quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, do đó việc thể hiện ý chí ưng thuận giữa các bên trong hôn
nhân là một trong các điều kiện căn bản để hôn nhân có hiệu lực. Hiện nay,
pháp luật về hôn nhân và gia đình của các nước đều ghi nhận: Không có hôn
nhân khi không có sự tự nguyện.
Thứ hai: Tính bền vững (tính chất suốt đời) của hôn nhân: Pháp luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam luôn coi trọng tính bền vững của hôn nhân, vì
truyền thống gia đình Việt Nam và xuất phát từ vai trò hôn nhân là cơ sở: xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 1, Luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000).
3
Thứ ba: Tính chất một vợ một chồng: Trong xu thế tiến bộ xã hội (đặc
biệt sự bình quyền giữa nam và nữ), sự khẳng định cá nhân con người ngày
càng lớn, đạo đức mới của con người không những phủ nhận kiểu hôn nhân
một chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như trước, mà đòi hỏi tình yêu
nam, nữ phải biểu hiện trong mối quan hệ thuỷ chung một vợ, một chồng.
Thứ tư, hôn nhân chỉ tồn tại giữa những người khác nhau về giới tính:
Để bảo đảm mục đích của hôn nhân được thực hiện; đồng thời, để bảo vệ yếu
tố đạo đức truyền thống và tính tự nhiên trong hôn nhân, pháp luật của đa số
các nước trên thế giới đều cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính (Việt
Nam quy định tại khoản 5, Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000).
Trong đó, một số nước coi hành vi kết hôn giữa những người cùng giới tính là
tội phạm.
Thứ năm: Tính chịu sự quy định của pháp luật: Cũng như các thiết chế
xã hội khác hôn nhân phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật hôn
nhân và gia đình các nước đều có các quy định chặt chẽ về kết hôn, quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng về chấm dứt hôn nhân.
1.2. Lịch sử hình thành hôn nhân của người Việt
Các nhà dân tộc học, xã hội học đã tìm thấy những bằng chứng là ngay
từ thuở bình minh của loài người thì sự kết hợp nam – nữ dù còn hoang dã,
bán khai đã mang tính xã hội, tức là có văn hóa. Việc cưới trong xã hội loài
người là biểu thị của văn hóa (đối chọi với cái tự nhiên). Nhờ có hôn lễ mà
con người khác hẳn với loài vật (không còn mang tính bản năng). Các tài liệu
lịch sử, dân tộc học, khảo cổ học ở nước ta về lĩnh vực này còn gặp rất nhiều
khó khăn. Nếu căn cứ vào những truyền thuyết và huyền thoại còn lưu giữ
cho đến ngày nay thì huyền thoại “Sơn Tinh – Thủy Tinh” là cổ nhất và mang
vẻ đặc trưng nhất miêu tả về những tập tục hôn lễ của dân tộc ta. Tuy cái xã
hội được phản ánh trong huyền thoại “Sơn Tinh – Thủy Tinh” đã cách chúng
4
ta mấy nghìn năm nhưng miêu tả về phong tục hôn lễ là rất rõ ràng, cụ thể,
sinh động (Ví dụ đoạn miêu tả lễ hỏi: “một trăm ván cơm nếp, hai trăm tệp
bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chin hồng mao,…).
Việt Nam là một trong những Bách Việt cổ nên ngay từ thuở dựng
nước đã chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Quốc. Nhưng phải đến thời
Bắc thuộc, người Trung Quốc mới áp đặt những lễ giáo Khổng giáo một cách
có hệ thống vào xã hội Việt Nam. Mặc dù hơn một ngàn năm bị lệ thuộc
phong kiến Trung Quốc, có lúc nước ta phải trở thành quận, huyện của Trung
Quốc, nhưng văn hóa bản địa vẫn có sức sống mãnh liệt, không hề bị đồng
hóa, trở thành bản sắc văn hóa Việt Nam và ngược lại đồng hóa nền văn hóa
Trung Quốc. Mặt khác, mặc dù dân ta xưa kia chịu ảnh hưởng của những lễ
nghi Trung Quốc nhưng do điều kiện kinh tế, khí hậu, địa lí và những truyền
thống văn hóa riêng biệt gìn giữ lâu đời nên việc thực hành những lễ giáo ấy
cũng không hoàn toàn giống người Trung Quốc.
Đặc biệt, từ sau thời kì Bắc thuộc, ý thức độc lập dân tộc của người
Việt Nam được đẩy lên cao. Tầng lớp phong kiến thời Lý, Trần đã ý thức
được: sau khi giành lại độc lập tự chủ cho đất nước thì vấn đề cốt yếu là phải
tạo ra cho được một hệ thống phong hóa riêng cho mình. Đó chính là bản sắc
văn hóa Việt Nam. Với ý thức ấy năm 1483, Lê Thánh Tông ban hành Luật
Hồng Đức gồm 721 điều về luật hình, luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự
và tố tụng,…tạo cho phong hóa nước nhà có cơ sở pháp lí vững vàng. Năm
1663, vua Lê Huyền Tông đã ban hành điều giáo hóa: “Vợ chồng là gốc luân
thường. Lấy vợ gả chồng phải theo lễ nghĩa, không được suy bì giàu nghèo,
đòi nhiều tiền của. Lấy nhau không phân biệt họ hàng, nòi giống, không được
tham giàu sang mà phối hợp loạn luân thường…”.
Trung Hoa có Chu Công gia lễ, Chu Công lục lễ nhưng ở Việt Nam,
thời nhà Trần, ông Hồ Sĩ Dương (người làng Hải Thượng, sau ngụ ở Hồng
5
Mai, huyện Thọ Xương nên có biệt hiệu là Thọ Mai cư sĩ) đã soạn ra bộ sách
Thọ Mai gia lễ để hướng dẫn con cháu thực hành nghi lễ trong hôn nhân và
tang chế. Sách này vừa phổ thông hóa những nguyên lý căn bản của Khổng
Nho, vừa dung nạp những phong tục bản địa của người Việt. Từ khi ra đời
đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, sách Thọ Mai gia lễ đã có ảnh
hưởng rất sâu đậm trong tập quán hiếu, hỷ của nhân dân ta.
Tuy nhiên, khi nền giáo dục Tây học đã tương đối phổ biến ở các thành
phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, tầng lớp thanh niên có học ở thành
phố đã tiếp thu những nét dân chủ tự do của tư tưởng phương Tây, thì những
mầm mống của tự do yêu đương dẫn đến hôn nhân đã xuất hiện. Nhiều học
sinh, trí thức muốn thoát khỏi vòng tay của cha mẹ trong lĩnh vực quyền
quyết định hôn nhân. Những điều này vẫn bị dư luận xã hội thời ấy phản đối
quyết liệt.
Mãi tới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếp đó là cuộc trường kì
kháng chiến chống thực dân Pháp chín năm, cả dân tộc ta được giải phóng về
chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa – xã hội, thì quan niệm, nếp nghĩ của nhân
dân ta đã thay đổi trong lĩnh vực hôn nhân. Những nghi thức cưới xin lúc này
thực sự đổi mới: một buổi lễ thành hôn với sự có mặt của hai họ, cô dâu chú
rể, xóm làng hoặc hàng phố, trong đó đại biểu của chính quyền cơ sở tuyên bố
công nhận là đủ. Sau phần tuyên bố công nhận bao giờ cũng có một cuộc liên
hoan mà văn nghệ là thành phần chính, kèm theo là tiệc trà rất đơn giản, nhẹ
nhàng. Những nghi vật giá thú, hình thức cầu kì hầu như bị xóa bỏ. Hôn nhân,
hôn lễ thời kì ấy chịu ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc của “văn hóa kháng chiến”.
Thời ấy, nam nữ yêu nhau, cưới nhau không phân biệt giàu nghèo, sang hèn,
thậm chí có những đôi cưới nhau không cần có sự đồng ý của cha mẹ hai bên,
miễn là họ tìm hiểu rồi báo cáo với tổ chức, được tổ chức chấp nhận thì tổ
chức cưới cho họ. Thực ra, mô hình hôn nhân này lúc đầu chỉ thực hiện ở
6
những người tham gia kháng chiến hay ở những chiến khu, nhưng sau này đã
trở thành phổ biến ở cả nông thôn, thành thị và trở thành “mode” của thời đại.
Vào những thập niên 60 (thế kỉ XX), Bộ trưởng Bộ văn hóa Hoàng Minh
Giám đã quyết định thành lập “Tổ Phong hóa”, cử đồng chí Hà Huy Giáp Thứ trưởng kiêm Bí thư Đảng Bộ văn hóa làm tổ trưởng. Tổ Phong hóa đã
nâng cao nền phong hóa nước nhà kết hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.
Mùa thu năm 1968, đồng chí Hà Huy Giáp thay mặt tổ Phong hóa trình bày
trước tiểu ban lí luận văn hóa – giáo dục Trung ương một văn bản quan trọng:
”Vấn đề cải tạo và xây dựng phong hóa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta”. Tài liệu khẳng định: “Cải tạo và xây dựng phong hóa là yêu cầu
quan trọng vào bậc nhất của cách mạng nhằm góp phần xây dựng một xã hội
mới với những con người mới. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây
dựng nếp sống mới trong việc cưới”.
Sau năm 1975, khi đất nước ta hoàn toàn giải phóng, cuộc sống hòa
bình lập lại, người dân Việt Nam muốn tìm ra một mô hình cho nghi lễ hôn
nhân phù hợp. Tất nhiên, nghi lễ trong hôn nhân không thể trở lại như thời
phong kiến và cũng không thể tổ chức theo kiểu châu Âu, hay kiểu “tuyên
hôn” như thời kháng chiến ở chiến khu. Về việc cưới hỏi thời đó, những hợp
tác xã miền Bắc đã xây dựng những quy ước nhằm tổ chức đám cưới giản di,
lành mạnh, vui vẻ, đỡ tốn kém.
Năm 1985, Bộ văn hóa Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh đã phối hợp phát động xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa trong thanh
niên. Hoạt động đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa
trong việc cưới. Năm 1986, Ban chỉ đạo nếp sống mới Trung ương đã ban
hành “nghi thức cưới mới” nhằm khai thác vốn văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đồng thời xác định trách nhiệm của chính quyền nhân dân, trách
nhiệm của gia đình, cộng đồng trong hôn lễ. Đầu năm 1998, chỉ thi 27 –
7
CT/TW của Bộ chính trị và chỉ thị 14 – 1998/CT – TTg của Thủ tướng chính
phủ về “việc xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”
đã ban hành, đã tạo cho hôn lễ dần dần vận hành đúng với xu thế của thời đại,
cũng như đúng với quy luật tồn tại của nó.
1.3. Cưới hỏi là gì?
Dân gian có câu: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thật là
khó thay”. Cưới là nghi lễ truyền thống quan trọng nhất của cả đời người,
trong đó có nhiều những lễ nghi không thể bỏ qua, vì vậy việc tổ chức một lễ
cưới dù theo phong cách truyền thống hay hiện đại cũng cần được nghiên cứu
hết sức cẩn trọng. Cưới hỏi là một nghi lễ không thể thiếu tại bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới. Lễ cưới của người Việt được coi là một trong 4 nghi lễ quan
trọng của đời người, gồm: quan, hôn, tang, tế. Về định nghĩa, lễ cưới hay đám
cưới là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự
chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn nhân. Với ý nghĩa
này, lễ này còn gọi là lễ thành hôn.
1.4. Lịch sử hình thành và quan niệm của người Việt về cưới hỏi
1.4.1. Lịch sử hình thành
Tổ tiên trực tiếp của loài người là giống động vật sống thành bầy, cho
thấy loài người đã trải qua giai đoạn bầy người nguyên thủy – tập đoàn sớm
nhất của loài người. Tập đoàn đó tồn tại trên cơ sở cùng kiếm ăn chung, cùng
phòng ngừa chung sự xâm hại từ ngoại lai, và cố nhiên sau nữa quan hệ giữa
nam và nữ rất tự do và thậm chí là hơi hỗn loạn. Tình trạng hôn nhân xưa nhất
đó gọi là “Tạp hôn” (Loạn hôn), “trong đó mỗi người đàn bà thuộc về nhiều
người đàn ông và ngược lại. Giữa ông bà, cha mẹ, con cháu, chị em đều
không có sự hạn chế tính giao nào. Trong tình hình đó, con cái chỉ biết đến
mẹ và đương nhiên việc nuôi dậy con cái là công việc chủ yếu của người mẹ”.
8
Diễn biến của chủng tộc loài người về sau ngày càng thay đổi theo sự phát
triển của quan hệ xã hội, ở sự phát triển trong mối liên hệ giữa những tập
đoàn khác nhau của loài người. Những điều đó sẽ dẫn tới sự hôn phối giữa
các chủng tộc khác nhau, hình thành nên một kiểu hôn nhân thứ hai là “Quần
hôn”. “Khác với loạn hôn, hình thức quần hôn cấm đoán mọi việc kết hôn
trong quần thể nguyên thủy, chỉ thực hiện chế độ hôn nhân với các quần thể
khác”. Hình thức hôn nhân này là một sự tiến bộ đáng kể, nó đã hạn chế được
hậu quả xấu do việc hôn phối quần thể gây nên.
Bước sang thời kì tổ chức “Công xã thị tộc mẫu hệ”, thời kì này sức sản
xuất phát triển rõ rệt. Sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất chính là tiền đề
cho các tập đoàn sản xuất ổn định và đoàn kết. Mối giây liên hệ, ràng buộc
các tập đoàn này là do quan hệ dòng máu đem lại. Dòng máu đó được sản
sinh bởi sự liên hệ chặt chẽ với nhau giữa hai thị tộc. Do đó, những nhân tố
trên đã tạo điều kiện cho hình thức “hôn nhân ngoại tộc” ra đời. “Hôn
nhân ngoại tộc nghiêm cấm nam nữ trong cùng một thị tộc kết hôn với nhau.
Các thành viên trong thị tộc, dù là nam hay nữ, cũng chỉ được phép kết hôn
với một đối tượng ở thị tộc khác”. Chế độ hôn nhân này là một bước tiến vô
cùng quan trọng, nó không chỉ giữ gìn mối đoàn kết giữa các thành viên trong
cùng thị tộc, hạn chế những mâu thuẫn nảy sinh mà còn góp phần quan trọng
trong việc duy trì nòi giống cho muôn đời sau.
Trong xã hội thị tộc mẫu hệ phát triển, trình độ phát triển sản
xuất ngày càng lớn mạnh. Lúc này đời sống vật chất khá ổn định, nhu cầu
tinh thần nhất là về tình cảm của con người lại càng đòi hỏi cao hơn. Trong
quá trình cùng nhau lao động sản xuất, tình cảm giữa nam và nữ đã bắt đầu
nảy nở. Và nhất là nữ giới họ bắt đầu có khao khát được ở bên cạnh một
người đàn ông để được chia sẻ và cùng gánh vác công việc, hình thái
hôn nhân “Đối ngẫu” dần được hình thành. Đó là sự kết hợp của một cặp đôi
9
tương đối xác định. “Hình thái quá độ này đã đánh dấu bước chuyển biến
từ chế độ quần hôn sang chế độ đối ngẫu hôn là sự “chuộc tội” của đàn bà:
người ta chuộc mình ra khỏi trạng thái cộng chồng thời cổ và giành
lấy quyền chỉ hiến thân cho một người mà thôi. Tức là lúc này hình
thức hôn nhân một nam một nữ đã được hình thành, tạo nên hình ảnh “bạn
đời trăm năm” đầy ý nghĩa. “Hôn nhân đối ngẫu là một cuộc cách mạng lần
thứ nhất về hôn nhân của loài người. Nếu trước đây trong các hình thức
hôn nhân “mông muội”, người con sinh ra không biết mặt cha, không
nhận được sự dưỡng dục từ cha thì nay nó ra đời trong vòng tay yêu thương
ấm áp của cả cha và mẹ. Đồng thời nó còn đảm bảo duy trì nòi giống cho thế
hệ sau thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Vào thời kì cuối của chế độ “Thị tộc mẫu hệ”, sức sản xuất phát triển
rất lớn đã kéo theo sự phát triển của kinh tế, kéo theo sự thay đổi địa vị của
đàn ông và đàn bà trong nền sản xuất xã hội và trong nền kinh tế gia đình
chính là mấu chốt của sự chuyển từ chế độ mẫu quyền sang chế độ
phụ quyền. Cùng với quá trình chuyển đổi này “hôn nhân đối ngẫu” cũng phát
triển thành “hôn nhân một vợ một chồng”. Khi địa vị xã hội cũng như địa vị
trong lao động của người đàn ông thay đổi, thì người phụ nữ trở về với bản
chất mà tạo hóa ban cho mình, đó là sự mềm yếu, cần được che chở và
thương yêu. Còn người đàn ông cũng khao khát được đem sức cường tráng
của mình để che chở cho những người phụ nữ. Trong quá trình lao động vất
vả, tình cảm luyến ái giữa nam và nữ đã bắt đầu nảy nở. Đặc biệt lúc này
nhận thức đã phát triển cao độ, họ muốn tất cả chỉ là của riêng mình. Do
đó, họ muốn có một hình thức nào đó để thông báo cho mọi người biết,
để hai người chính thức được trở thành vợ chồng, xây dựng một cuộc
sống riêng, bền vững và lâu dài. Theo đó hình thức hôn lễ hay còn gọi là
cưới hỏi ra đời.
10
Trong thời kì “Mẫu quyền” thì hôn lễ được tổ chức ở nhà gái do người con
trai phải đến đó ở rể. Sau đó khi xã hội chuyển sang chế độ “Phụ quyền” thì
người đàn ông lúc này liên hệ mật thiết với gia tộc của mình, dựa vào địa vị
xã hội quan trọng mới giành được để đập tan trật tự hôn nhân của chế độ
“Mẫu quyền”, đưa vợ về nhà mình ở. Và điều này đã trở thành quy luật trong
cưới hỏi ngày nay. Sự thay đổi địa vị lao động nhưng không phải người
phụ nữ không còn sức lao động. Họ vẫn đem lại những giá trị lao động lớn
trong những ngành thủ công. Do vậy, khi gia tộc có người đi lấy chồng, theo
lệ thường, đòi nhà trai một khoản bồi thường nhất định. Đó chính là dấu ấn
về các khoản tiền cheo, tiền cưới trong lễ nghi cưới hỏi ngày nay.
1.4.2. Quan niệm
Trong tâm thức người Việt thì lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn. Sự quan tâm lớn của xã hội vào buổi lễ này đôi khi gây
sức ép lên những người tổ chức: họ phải đảm bảo để có thể làm hài lòng
nhiều người tham dự. Trước đây, trong lễ cưới Việt Nam, những người tham
dự thường đem tặng các đồ mừng đám cưới. Quà cưới thường trang trọng,
được bọc giấy điều. Trong đám cưới, ban lễ tân (thường là người thân) đứng
ra nhận quà mừng. Có những đám cưới tổ chức tiệc trà, đơn giản hơn tiệc
cưới thông thường, có ý không yêu cầu người tham dự mang quà mừng. Còn
ngày nay, chỉ với những bạn bè thân thiết của cô dâu và chú rể mới tặng quà
cưới cho hai người và ông bà bố mẹ với những người thân trong họ hàng, trao
quà cưới làm của hồi môn cho đôi tân giai nhân. Còn lại tất cả khách mời đều
mừng bằng phong bì tiền, và đó là cách đơn giản gọn nhẹ nhất, cũng tiện nhất
và hợp ý của người tổ chức.
Thời phong kiến, theo luân lý “tam cương ngũ thường”, con cái mà có
cha khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái cha mẹ có quyền
độc đoán và “đặt đâu ngồi đấy”. Nếu con cái không bằng lòng với người vợ hay
chồng mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự không cần biết
11
ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi “môn đăng hộ đối” là cha mẹ nhờ “mối
lái” điều đình để đính hôn. Ngoài ra, tuổi tác của bố mẹ cô dâu chú rể cũng được
coi là yếu tố quan trọng của “môn đăng hộ đối”. Nếu hai bên bố mẹ cách biệt
quá lớn về tuổi tác thì họ cũng không làm thông gia với nhau.
Người xưa quan niệm mục đích cưới hỏi cốt duy trì gia thống cho nên
việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của con
cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa
vụ của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau để “vĩnh
truyền tông tộc”, do đó luân lý cho người “vô hậu” là phạm điều bất hiếu rất
lớn. Việc hôn nhân không những chỉ có nguyên nhân huyết thống mà còn có
nguyên nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tông
đường mà còn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho gia đình nhà chồng. Hôn
nhân của đôi trai gái còn là việc xác lập mối quan hệ giữa hai gia đình trước
kia “không quen biết” nay trở thành thông gia. Vì vậy cần phải xem xét gia
đình đó có môn đăng hộ đối với gia đình mình hay không.
Quan niệm về tầm quan trọng của một lễ cưới ngày nay vẫn giữ nguyên
vẹn. Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng không còn quá phụ thuộc vào cộng
đồng. Thực tế, quyền quyết định ngày nay phần nhiều thuộc về đôi trẻ, cho dù
gia đình có “môn đăng hộ đối” hay không. Việc này cũng cho phép cô dâu và
chú rể được đặt tính cá nhân của mình vào một lễ cưới nhiều hơn.Đứng về
phía pháp luật, chỉ cần đôi nam nữ có giấy đăng kí kết hôn là được pháp luật
bảo vệ. Tuy nhiên, quan niệm chung của tất cả các cặp đôi vẫn là kết hôn phải
được sự đồng ý của hai bên gia đình và thông báo tới họ hàng và bạn bè.
Có thể nói, đám cưới là một trong bốn nghi lễ quan trọng của đời
người, vì vậy, đám cưới không chỉ dành riêng cho cô dâu, chú rể mà nó là mối
quan tâm cho cả gia đình. Do đó, các gia đình Việt quan niệm cần phải kiêng
kị một số điều với hi vọng cuộc sống vợ chồng sau này sẽ suôn sẻ, hòa thuận,
hạnh phúc.
12
Chương 2: PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI VIỆT MIỀN BẮC
XƯA (TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XIX)
2.1. Tuổi kết hôn
Người Việt Nam nói chung và người miền Bắc nói riêng rất coi trọng
về vấn đề tuổi tác khi làm bất cứ việc gì. Tuổi tác có đẹp, có hợp thì mọi việc
mới suôn sẻ, tốt đẹp. Đặc biệt, trong chuyện cưới hỏi, tuổi tác để kết hôn còn
quan trọng hơn bao giờ hết. Theo quan niệm phong kiến, con gái con trai
thường độ mười lăm, mười sáu là đã có thể dựng vợ gả chồng, hai mươi ba
tuổi được gọi cưới muộn. Không chỉ có thể, người ta còn cưới cho con cái của
mình từ tuổi mười hai, mười ba tuổi và cũng có nhiều gia đình ước hôn từ lúc
con còn trong bụng.
2.2. Các nghi lễ
Hôn nhân xưa của người miền Bắc tương đối thống nhất về các lễ nghi
cơ bản. Theo hôn nhân truyền thống ở nước ta từ xưa, tục cưới hỏi phải trải
qua sáu lễ: Lễ nạp thái, Lễ vấn danh, Lễ nạp cát, Lễ nạp chính, Lễ thỉnh kỳ,
Lễ thân nghinh.
2.2.1. Lễ nạp thái (Lễ chạm ngõ)
Sau khi mai mối tin đi tin lại, hai gia đình thấy việc thăm hỏi nhau có
thể tiến hành. Nhà trai xin được đặt một cái lễ gọi là lễ nạp thái hay dân gian
còn gọi là lễ chạm ngõ. Đúng ngày giờ tốt như đã thỏa thuận, bà mối dẫn đầu
đoàn nhà trai sang thăm nhà gái. Đoàn này thường bao gồm các bậc cô, dì,
chú, bác,… của chú rể và đặc biệt, không thể thiếu là chú rể. Họ là những
người có tài ăn nói, óc quan sát tinh tế, sắc sảo.
Nội dung của lễ này là hai bên gia đình trao đổi, thăm dò. Trong khi hai
bên trò chuyện, nhà gái kín đáo cho cô gái mà nhà trai ướm hỏi ra chào hỏi
mọi người. Thường là cô gái ra mời trầu, mời nước. Cô gái chỉ xuất hiện một
13
lần rồi trở lại buồng riêng của mình. Đây cũng chính là cơ hội để nhà trai và
chú rể quan sát cô gái. Bà mối yêu cầu cô gái trang điểm nhẹ nhàng, giản dị,
nhưng nhất thiết không được đội khăn mỏ quạ che kín gáy và hai tai. Bởi vì
nhà trai và chú rể không chỉ quan sát mặt của cô gái mà còn ngắm nhìn cả
tướng mặt bao gồm cả mắt, mũi, miệng,…
Khi đã quan sát kĩ lưỡng nét mặt, dáng đi, giọng nói, cử chỉ của cô gái
thì nhất thiết trong họ nhà trai sẽ có một hai bà ra ngoài đi quan sát từ sân,
ngõ, bếp, chuồng trại chăn nuôi,… vì những chỗ đó bừa bãi hay gọn gàng đều
đủ để nói lên tính cách của cô gái. Nếu nhà trai được nhà gái mời ở lại dùng
bữa thì đó sẽ là dịp cho cô gái trổ tài nấu nướng của mình và là điều kiện để
nhà trai thẩm định về công – dung – ngôn – hạnh của nàng dâu tương lai.
Về bản chất, lễ nạp thái này chính là cơ hội để nhà trai đến thăm hỏi,
trò chuyện với nhà gái, thấy được tận mắt gia đình nhà gái (tránh được những
lời nói dối của bà mối) và sau đó nhà trai sẽ quyết định đi đến hôn lễ hay
không. Có nhiều gia đình, sau lễ nạp thái này, hai bên nhà trai nhà gái trở nên
khăng khít và tiếp tục tiến hành lần lượt các lễ tiếp theo. Đôi khi, cũng có
những gia đình sau lễ nạp thái bỏ ý định kết hôn. Vì vậy, buổi ra mắt nhà trai
đòi hỏi nhà gái phải chuẩn bị thật chu đáo, nhà cửa sửa soạn tươm tất, gọn
gàng để làm vừa mắt nhà trai. Bà mối cũng có vai trò hết sức quan trọng trog
vấn đề này, bởi lẽ họ sẽ là người thăm hỏi, dò xét sở thích, thái độ của họ nhà
trai để giúp nhà gái sửa soạn một cách tốt nhất. Ngược lại, bà mối cũng giúp
nhà trai khắc phục những khiếm khuyết để không bị nhà gái từ chối.
Nếu nhà gái nhận lễ thì bước đầu tiên trong chặng đường hôn nhân coi
như đã xong. Nhưng đây không phải là lễ có ý nghĩa ràng buộc hai bên lại với
nhau. Nếu như một trong hai bên có ý định hủy bỏ thì đều có cơ hội làm điều
này bởi lẽ nội dung của lễ nạp thái chỉ là cuộc thăm hỏi bình thường của hai
bên gia đình, họ không hề bàn tính gì về lễ cưới trong cuộc nói chuyện.
14
2.2.1.1. Lễ vật
Lễ vật chủ yếu của lễ nạp thái hay lễ chạm ngõ là trầu cau, ngoài ra có
thể thêm chè, bánh kẹo tùy vào điều kiện của từng gia đình. Thường ở miền
Bắc, số lượng mỗi loại lễ vật phải là chẵn, ví dụ hai gói chè, hai chục cau, hai
chục lá trầu,…
2.2.1.2. Mối lái là gì và vai trò của bà mối
Trong xã hội phong kiến xưa “Nam nữ thụ thụ bất thân” nên hôn nhân
cần phải người môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê
trách là “phải lòng nhau” và “mắc phải bùa yêu”. Thường thì khi các con của
mình đã đến tuổi lập gia đình, các bậc phụ huynh thường nhờ đến ông mai bà
mối tìm kiếm cho gia đình họ một “đám” thông gia môn đăng hộ đối. Một số
trường hợp gia đình nhà trai đã tìm được nàng dâu ưng ý cho con trai mình
nhưng không dám thất thố nên phải nhờ tới những người mai mối mở lời trước.
Ngày xưa, nghề “mai mối” rất thịnh hành, người làm nghề này phải là
những ông tơ bà nguyệt thông minh lanh lợi, có tài ăn nói hoạt bát để se
duyên cho các cặp đôi. Khi lần đầu tiên đến đặt vấn đề, người mai mối sẽ đi
một mình, không mang theo lễ vật gì và cũng không vội vàng nói về chuyện
cưới xin, mà chỉ “đánh tiếng” rằng có gia đình nhà khác muốn kết thông gia.
Người mai mối sẽ phải khéo léo giới thiệu về gia đình nhà trai và chàng trai
muốn được làm con rể tương lai để bố mẹ cô gái cân nhắc. Nếu được gia đình
cô gái chấp thuận thì người mai mối sẽ về bàn bạc với gia đình nhà trai và
chọn ngày lành tháng tốt để nhà trai mang trầu cau sang nhà gái chính thức
đặt vấn đề. Trong trường hợp nếu gia đình nhà gái có yêu cầu gì về mặt sính
lễ hay hai gia đình có những vướng mắc trong quá trình diễn ra các nghi lễ
cưới hỏi, họ sẽ thông qua người mai mối để giải quyết. Vai trò của bà mối chỉ
thực sự kết thúc khi đám cưới được diễn ra một cách suôn sẻ, trọn vẹn. Những
người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì bà mối sẽ trở thành ân
15
nhân suốt đời. Lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa mâm xôi, nửa con gà kèm
theo chiếc áo lụa. Chẵn tháng con đầu lòng thế nào cũng cố mời bà mối đến
dự để tỏ nghĩa tri ân.
2.2.2. Lễ vấn danh
Đây là lễ mà nhà trai đến để hỏi tên tuổi của cô gái. Trong thời kì
phong kiến, ở nhiều vùng nông thôn miền Bắc, con gái từ khi sinh đến khi lấy
chồng vẫn chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi học. Con gái
không cần vào sổ họ, sổ làng, không đi học nên cũng không cần dặt tên vội. ở
trong nhà con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắt
em,…Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến làm lễ vấn
danh, ông bác hoặc bố mới đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khi
chính người mang tên cũng không biết mình mang tên gì trong giấy hôn thú,
vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, có
cháu đích tôn gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủ
yếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được
nhau, tuổi xung khắc thì thôi.
2.2.2.1. Lễ vật
Nhà trai thông qua người mối cử một đoàn gồm vài ba người với lễ vật
gồm chè, rượu, trầu cau đến nhà gái.
2.2.2.2. Cách thức tiến hành
Khi nhà trai đến thì nhà gái đưa ra một tờ giấy, trong đó ghi đầy đủ họ
tên, ngày, tháng, năm sinh của cô gái, đôi khi còn bao gồm cả giờ sinh nếu
nhà trai yêu cầu. Có những trường hợp, chủ nhân nhà trai là người cẩn trọng,
giỏi về chữ nghĩa còn gửi thư (qua đoàn nhà trai) sang bên nhà gái nhằm bày
tỏ lễ nghĩa và lòng thành tâm của mình. Nhà gái tiếp nhận lễ, sau đó tiếp tục
dâng thư cùng lễ vật lên bàn thờ để báo cáo từ đường. Để đáp lại lễ nghĩa của
nhà trai, nhà gái cũng viết thư đưa gửi lại cho nhà trai và đưa tiễn họ về. Ý
16
nghĩa của lá thiếp là đế so tuổi hai bên nam nữ xem có tương sinh, tương hợp
hay không. Đây chỉ là một hình thức tin vào lá số, cung, mệnh của dân gian.
2.2.3. Lễ nạp cát
Lễ này trong dân gian còn gọi là lễ ăn hỏi. Sau lễ vấn danh, đôi bên
thấy hợp tuổi nhau thì bên nhà trai liền đánh tiếng để tiến hành lễ ăn hỏi. Lễ
nạp cát thường được tổ chức vào ngày lành, tháng tốt. Nhà trai thường hỏi ý
kiến của nhà gái về các nghi thức cụ thể và lễ vật. Nếu nhà gái muốn số lượng
lễ vật nhiều thì chỉ bày tỏ một cách ý tứ: gia đình nội, ngoại đông, bạn bè
nhiều,…để nhà trai dễ dàng biện lễ.
2.2.3.1. Lễ vật
Ở nông thôn miền Bắc thời kì phong kiến thì lễ vật chủ yếu là một
buồng cau to khoảng ba bốn trăm quả phải nguyên buồng và có cuống râu dài,
dăm chai rượu trắng, một mâm xôi gấc, một cái thủ lợn. Ở thành phố thì có
xôi gấc, lợn quay, trà, rượu hồng, bánh trái, trầu cau,…Đây là những lễ vật
đối với những gia đình khá giả, còn những gia đình nghèo thì lễ vật chủ yếu là
cau trầu, không chè, rượu với số lượng ít. Các đồ lễ mang sang nhà gái
thường được để trên những chiếc mâm đồng mới và bên trên phủ vải đỏ.
2.2.3.2. Thành phần tham gia
Thành phần đoàn ăn hỏi nhà trai có bố, mẹ, ông, bà hai bên nội, ngoại.
Nếu ông nội chú rể còn sống thì ông đi thay bố mẹ. Họ nội phải có ông trưởng
họ và bác của chú rể. Những người mang đồ lễ sang nhà gái phải là nam nữ
trong họ nội. Đoàn đi ăn hỏi mặc áo the, đầu đội khăn xếp. Trong lễ hỏi bắt
buộc phải có chú rể đi cùng vì đây là lần đầu ra mắt gia đình và họ hàng bên
nhà vợ.
2.2.3.3. Các việc cần làm
Bên nhà gái trong dịp này thường mời bà con thân cận nhất đến tham
dự lễ hỏi và làm cơm thiết đãi nhà trai. Cô dâu chỉ cần ăn mặc gọn gàng hơn
17
ngày thường. Trước lúc nhà trai tổ chức lễ ăn hỏi, thường phải lễ gia tiên và
cúng nhà thờ họ. Khi đến nhà gái, người dẫn đầu (ông nội, trưởng họ) dâng lễ
đưa lễ cho nhà gái. Nhà gái ra nhận lễ và đưa một ít lễ vật lên bàn thờ. Sau đó,
bố cô dâu thắp hương khấn vái và thông báo với tổ tiên.
Nội dung chủ yếu trong lễ hỏi là gia đình nhà trai đặt vấn đề chính thức
với nhà gái và nhà gái chấp nhận con rể, thông gia. Nếu lễ hỏi gần với lễ cưới
thì hai bên sẽ bàn tới ngày cưới. Lễ hỏi thường kéo dài khoảng ba mươi phút
đến một giờ. Cô dâu tương lai phải đi đun nước và mang nước lên mời mọi
người, chú rể thì ngồi im một chỗ. Sau khi được sự cho phép của hai gia đình,
chú rể mới được xuống bếp cùng cô dâu.
Trước khi nhà trai ra về có tục “lại quả” cho nhà trai. Nhà gái chia một
phần lễ vật cho nhà trai mang về. Riêng đối với cau, khi chia phải xé, không
được cắt. Phần vật lễ còn lại nhà gái dung để chia cho họ hàng. Chia bánh,
cau, chè,… phải chia theo số chẵn. Việc chia đồ lễ này có ý nghĩa nhà gái
muốn thông báo cho bạn bè, họ hàng, lối xóm biết con gái mình đã đính hôn.
Trước đây, trong thời kì phong kiến, sau lễ ăn hỏi không tổ chức lễ
cưới ngay mà ít nhất là ba tháng, bình thường là một năm hoặc nhiều nhất là
ba năm. Sau lễ hỏi, theo quan niệm phong kiến ở miền Bắc, trai gái đã gần
như chính thức là vợ chồng, hai bên đã thành thông gia, vì vậy, họ phải thực
hiện các nghĩa vụ như khi đã thành gia thất. Trong thời gian này, chàng rể
phải thường xuyên đi lại thăm hỏi gia đình nhà vợ, chăm sóc người già khi
đau ốm, giúp việc khi có việc. Bổn phận đầu tiên của chàng rể là phải “sêu
tết”. “Sêu” tức là mùa nào thức ấy, chàng rể phải mang lễ vật sang biếu bố mẹ
vợ chưa cưới. Vào những dịp tết, chàng rể cũng phải sang tết bố mẹ vợ. Trong
thời gian này, nếu gia đình nhà vợ có tang thì vẫn phải để tang như con rể
bình thường. Vào các dịp lễ giỗ, chàng rể phải đem lễ vật cúng sang nhà gái
để bày tỏ lòng thương yêu vợ cũng như ý thức, bổn phận và chứng tỏ sự gia
18
giáo của gia đình mình. Có những gia đình nhà gái hiếm con, sau khi tiến
hành lễ ăn hỏi thường bắt chàng trai ở rể từ một đến ba năm rồi mới cho cưới.
Thời gian ở rể cũng là khoảng thời gian thử thách: từ lao động đến cách đối
nhân xử thế,…Chính vì vậy, chàng rể thường làm việc không tiếc sức, vui vẻ,
hòa nhã với mọi người.
Cô dâu cũng cần phải sang nhà trai khi có công việc lớn. Gia đình nhà
trai có tang, cô dâu cũng phải để tang như con dâu bình thường. Sau lễ ăn hỏi,
cô dâu chú rể không được phép gặp nhau, trừ trường hợp đặc biệt lắm thì đôi
bên cha mẹ mới cho phép.
2.2.4. Lễ nạp chính
Sau khi nhà trai “sêu tết” đều đặn, mối quan hệ của hai bên gia đình
cũng trở nên khăng khít, nhà trai xem tuổi hợp duyên đôi bên và được nhà gái
chấp thuận ngày, giờ cưới, lúc đó nhà trai chuẩn bị đồ sính lễ để đến xin cưới.
Tùy theo yêu cầu của nhà gái mà đồ lễ nhà trai mang tới là hiện vật hay tiền
mặt. Đây là bước thách cưới. Có những nhà gái đòi hỏi đủ thứ và yêu cầu nhà
trai phải đáp ứng tất cả. Tuy nhiên, có khi nhà gái đòi mười thì nhà trai chỉ có
thể lo được một, hai. Trong thời gian này, tình cảm của hai bên cũng có đôi
phần bị tổn thương.
Các đồ sính lễ do nhà gái tự mua sắm là trang phục của cô dâu, riêng
hoa tai, xà tích do mẹ chú rể mang sang khi đi xin dâu cùng bà mối. Trước lễ
cưới hai đến ba ngày, nhà trai tiến hành đi xin dâu và bao giờ cũng đi vào
buổi sáng. Đoàn đi xin dâu gồm mẹ chú rể, bà mối và một số bà con họ hàng.
Trước khi đi xin dâu, nhà trai làm lễ cáo gia tiên. Đến nhà gái, đồ lễ vật đã
được nhà trai bày ra sân, còn trầu cau, tiền, bánh được đưa vào nhà đặt lên
bàn thờ để trình báo tổ tiên nhà gái.
Lễ vật mà nhà trai dẫn cưới thường bao gồm ba lễ mặn. Đây là ba lễ bắt
buộc dù cho gia đình nhà trai giàu hay nghèo:
19
Lễ nhà tộc trưởng bên vợ.
Lễ tại nhà thờ cậu của vợ.
Lễ gia tiên tại nhà.
2.2.5. Lễ thỉnh kỳ
Tức là nhà trai hẹn ngày xin cưới. Sau lễ nạp chính, nhà trai ra về và
hẹn nhà gái ngày, giờ đón dâu.
2.2.6. Lễ thân nghinh (Lễ đón dâu, rước dâu)
Lễ thân nghinh là lễ mà nhà trai sang nhà gái đón dâu về, chính vì vậy
mà thường được chuẩn bị sang trọng, lịch sự. Việc tổ chức ngày lễ này cần
phải kiêng kị một số điều như: bản thân cô dâu, chú rể không ở thời gian đại
tang, ngày giờ cưới phải tránh các ngày đại kỵ (giờ sát,…) và đồng thời tránh
tháng ngâu tức là tháng bảy Âm lịch.
Sau khi đã định xong ngày, giờ đón dâu, chủ hôn cử người mang trầu
cau đi đến mời ông cầm hương. Ông là người sẽ cầm bó hương dẫn đầu đám
cưới dâu. Thường thì sẽ chọn người đứng tuổi, phúc hậu, gia đình nề nếp, vợ
chồng song toàn, con cháu đông đúc, hòa thuận và đặc biệt là gia đình không
có tang chế.
2.2.6.1. Trang phục của cô dâu, chú rể
Trong ngày cưới, các cô dâu miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoài
cùng là chiếc áo the thâm, bên trong ẩn hiện hai chiếc áo màu hồng và màu
xanh hoặc màu vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng, cuối cùng là
chiếc yếm hoa đào có dải bằng lụa bạch. Thắt lưng gồm hai chiếc bằng lụa
màu hoa đào, hoa lý, ngoài cùng là thắt lưng sồi xe hay vải sa màu đen, cả ba
thắt lưng đều có tua ở hai đầu. Lúc bấy giờ kiểu trang điểm cho mái tóc thật
đơn giản, chỉ là vấn khăn, đầu khăn gài chiếc đinh ghim, có đính con bướm
vàng chạm bạc, để tóc đuôi gà. Lúc đưa dâu, đi đường đội nón thúng quai
thao (chủ yếu là để che mặt cho đỡ thẹn với mọi người). Chân đi dép cong.
20
Ðồ trang sức có khuyên đeo tai bằng vàng hoặc bằng bạc, cạnh sườn đeo bộ
xà tích, con dao, ống vôi… bằng bạc chạm trổ tinh vi.
Trang phục trong ngày cưới thường thì mặc áo thụng bằng gấm hay the
màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiều màu lam, chân đi văn hài
thêu đẹp.
2.2.6.2. Các nghi lễ chủ yếu
Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn sắp xếp, chỉnh đốn lại thứ tự.
Cụ già cầm hương cùng với một người đội lễ trầu cau và rượu vào trước.
Mâm lễ ấy được đặt lên bàn thờ, cụ già thắp hương vái, nhà gái vái đáp lễ trả
lại, rồi một vị đứng đầu họ nhà gái cùng ra chào đón đoàn xin dâu vào. Sau
đó, cô dâu và chú rể cùng nhau đứng vái lạy trước bàn thờ tổ tiên, xin phép
gia tiên cho họ được cầm khay trầu đi mời họ hàng, bạn bè. Khi mời, cô dâu
phải chủ động mời trước để chú rể còn biết cách xưng hô. Trước khi về nhà
chông, cô dâu quỳ lạy ông bà, cha mẹ mình. Những người này thường ngồi ở
phía cửa chính và cha mẹ cô dâu sẽ tặng cho cô một vật gì đó làm kỉ niệm, ví
như hoa tai, nhẫn cưới, một ít quan tiền, quạt,… Ông bà, cha mẹ còn dặn dò
con cháu vài lời trước khi về nhà chồng. Và sau đó, chủ hôn nhà trai sẽ nói
với chủ hôn nhà gái ngày giờ tốt để đón dâu và lúc này, đoàn đón dâu bắt đầu
về nhà trai.
Khi đoàn đón rước dâu về gần đến nhà, một người trong đoàn đi về
trước để thông báo cho gia đình. Nhà trai chờ đoàn đón dâu và đến ngõ thì đốt
một tràng pháo. Trước lúc đoàn đón dâu vào cổng, mẹ chồng thường mang
bình vôi tránh sang nhà hàng xóm. Sau khi đoàn đón dâu đã yên vị, mẹ chồng
mới lặng lẽ đặt bình vôi vào chỗ cũ và ra tiếp chuyện.
Trước cửa nhà trai thường đặt một hỏa lò than hồng, cô dâu phải bước
qua để đốt đi những vía dữ cô gặp trên đường. Ở nhiều nơi còn có tục chăng
dây, đóng cổng làng, cổng ngõ. Nhà trai phải chịu tục này khi lấy vợ làng
21
khác do một số người bên làng nhà gái tổ chức. Còn đối với những đám trai
làng lấy gái làng thì có tục chăng dây ngõ hay đóng cổng vào nhà gái. Hình
thức phổ biến là trên đường dẫn vào nhà gái, người ta để một chiếc bàn nhỏ.
Trên bàn có một lọ hoa và một sợi chỉ chăng ngang đường. Khi đoàn nhà trai
đến, người ta đốt một bánh pháo ngụ ý chào và đợi ý tứ của nhà trai. Bố chú
rể phải có lời xin và đưa một ít tiền mừng xin phép cởi dây.
Sau khi cô dâu chú rể về nhà chồng, họ phải làm lễ gia tiên và lễ lạy bố
mẹ chồng. Cô dâu quỳ lạy hai lạy và bố mẹ chồng sẽ tặng cho cô dâu một
món quà. Tại đây, cô dâu, chú rể cũng lạy cả những người bề trên bên nhà
chồng và họ tặng lại quà cho họ. Sau đó, mấy chị em họ nhà chồng đưa cô
dâu đi lễ nhà thờ họ. Tiếp theo, cô dâu trở về nhà chồng và làm lễ “tơ hồng”.
Lễ tơ hồng thường tế ngoài trời phía trước sân nhà. Bàn tế thường thiết lập
ngay sau khi đoàn đón dâu vào nhà, gồm có: hương án, bát hương, bài vị, hai
cây nến và một mâm cỗ. Ông cầm hương khấn trước, cô dâu lễ ngồi và chú rể
lễ quỳ. Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trước hương án, lạy bốn lạy
rồi quỳ. Hai bên hương án có hai người chấp sự, một người đọc văn tế, một
người rót rượu, lễ mừng chủ tế một tuần rượu. Văn tế viết trên giấy hồng
điều, đọc xong dìm vào chậu nước đặt trước hương án. Khi văn tế tơ hồng
xong, cô dâu chú rể mỗi người bốn lễ và cùng nhau uống chung một ly rượu.
Sau đó, hai người ăn một miếng trầu, têm chung một quả cau và một lá trầu.
Lễ tơ hồng thường chỉ diễn ra khoảng mười lăm đến ba mươi phút.
Ngoài ra, cưới hỏi thời kì phong kiến ở miền Bắc còn tồn tại một số tục
lệ nữa tương đối phức tạp trước khi diễn ra lễ thân nghinh (lễ đón dâu, lễ
cưới).
* Lễ nộp cheo
Ngày xưa khi chưa có luật lệ bắt buộc trai gái kết hôn với nhau phải
làm giấy giá thú hay đăng kí kết hôn như ngày nay, vì vậy để đảm bảo quyền
22
Sinh viên thực hiệnTrần Phương LinhLỜI CAM ĐOANTôi xin cam kết ràng buộc những nội dung mà tôi trình diễn trong khóa luận nàylà tác dụng điều tra và nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của ThS, GVC Vũ Ngọc Doanh. Kết quả thu được là trọn vẹn trung thực và khôngtrùng với hiệu quả nghiên cứu và điều tra của tác giả khác. TP. Hà Nội, ngàythángnăm 2014S inh viên thực hiệnTrần Phương LinhMỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiCưới hỏi là phong tục tốt đẹp, mang đậm truyền thống của người Việt. Đó làmột trong bốn nghi lễ quan trọng và được xã hội chăm sóc nhiều hơn cả. Ôngbà ta đã dạy rằng : “ Trai khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng ”, điều này cho thấyviệc kiến thiết xây dựng niềm hạnh phúc mái ấm gia đình đã trở thành một quy luật tất yếu khi conngười bước vào tuổi trưởng thành. Ở đời, niềm hạnh phúc nhất là trải qua nhữngkhoảnh khắc trong ngày hôn lễ. Nghiên cứu về phong tục cưới hỏi phần nàogiúp ta hiểu được về một lễ nghi thiêng liêng của dân tộc bản địa, mặt khác cho tathêm yêu, tự hào về đời sống văn hóa truyền thống – ý thức rực rỡ này. Cưới hỏi thường phải trải qua nhiều bước tương đối khắc nghiệt và thựchiện những lễ nghi quan trọng của lễ giáo phong kiến. Tuy nhiên, một số ít lễ nghitrong cưới hỏi ngày này đã bị biến hóa đi nhiều, gây tiêu tốn lãng phí và dần làm mấtđi vẻ đẹp vốn có của nó. Thực trạng này đã và đang được dư luận xã hội lênán, phê phán. Điều này cho thấy sự thiết yếu phải biến hóa cách nghĩ, cáchlàm của nhân dân trong việc tổ chức triển khai lễ cưới sao cho tương thích với đời sống vàphong tục, tập quán của nước ta để cưới xin thực sự là ngày vui, ý nghĩa củađôi lứa, mái ấm gia đình, người thân trong gia đình và bạn hữu. 2. Lịch sử vấn đềCưới hỏi là một đề tài không phải là mới. Đã có rất nhiều tên tuổi nổitiếng viết về phong tục cưới hỏi của người Việt. Tiêu biểu như : Hồ Sỹ Tân, Thọ mai gia lễ. Phan Kế Bính ( 2005 ), Nước Ta phong tục, Nhà xuất bản văn hóa thôngtin, Thành Phố Hà Nội. Phạm Côn Sơn, Gia lễ xưa và nay. Lê Như Hoa ( 1998 ), Hôn lễ xưa và nay, Nhà xuất bản văn hóa thôngtin, Thành Phố Hà Nội. Những khu công trình nghiên cứu và điều tra này là tiền đề, là cơ sở cho tác giả thamkhảo và viết được bài điều tra và nghiên cứu này. 3. Đối tượng và khoanh vùng phạm vi nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu và điều tra : Phong tục cưới hỏi của người Việt ở miền BắcPhạm vi nghiên cứu và điều tra : Phong tục cưới hỏi của người Việt ở miền Bắcxưa ( từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX ) và nay ( từ đầu thế kỉ XX đến nay ). 4. Mục đích, tiềm năng nghiên cứuGiúp cho ta có cái nhìn sâu, rộng và tổng lực về phong tục cưới hỏicủa người Việt xưa và nay. Thấy được đây là một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt từ xưa đến nay. Đề xuất một số ít giải pháp để giữ gìn, bảo tồn và phát huy trên cơ sởkhông làm biến dạng đi phong tục cưới hỏi của người Việt nói chung vàphong tục cưới hỏi ở miền Bắc nói riêng. 5. Phương pháp nghiên cứuKhảo sát và điền dãTổng hợp và tích góp tư liệuSo sánh và phân tíchTruy vấn thông tin Internet6. Đóng góp của khóa luậnBổ sung vào nghiên cứu và điều tra giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong phong tục cướihỏi của người Việt ở miền Bắc. Đề xuất những khuynh hướng, giải pháp để giữ gìn phong tục văn hóa truyền thống tốtđẹp này, cần phải có sự tiếp nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. 7. Bố cục của khóa luậnNgoài phần mở màn và phần Kết luận, nội dung của khóa luận gồm 3 chương : Chương 1 : Những yếu tố chung. Chương 2 : Phong tục cưới hỏi của người Việt xưa ( từ thế kỉ X đến thếkỉ XIX ). Chương 3 : Phong tục cưới hỏi của người Việt nay ( từ thế kỉ XX đến nay ). NỘI DUNGChương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG1. 1. Hôn nhân là gì ? Ở những nước theo mạng lưới hệ thống pháp lý Anh – Mỹ, hôn nhân gia đình là sự liên kếttự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà mà không vìmột mục tiêu nào khác. Ngoài khái niệm trên, lúc bấy giờ, một số ít luật gia ởchâu Âu và Mỹ quan niệm : “ Hôn nhân là sự link pháp lý giữa một ngườinam và một người nữ với tư cách là vợ chồng ” hoặc : “ Hôn nhân là hành vihoặc thực trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư cáchlà vợ chồng ”. Theo Luật hôn nhân gia đình và mái ấm gia đình Nước Ta năm 2000 lao lý : “ Hônnhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn ” ( Điểm 6, Điều 8 ). Còntheo Từ điển lý giải thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà nộihôn nhân được hiểu là : “ Sự link giữa người nam và người nữ dựa trênnguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện kèm theo và trình tự nhất định, nhằmchung sống với nhau suốt đời và thiết kế xây dựng mái ấm gia đình niềm hạnh phúc và hoà thuận ”. Hôn nhân qua những khái niệm này đều phản ánh năm đặc thù cơ bản : Thứ nhất, tính tự nguyện trong hôn nhân gia đình : Hôn nhân là quan hệ giữa cánhân với cá thể, do đó việc biểu lộ ý chí ưng thuận giữa những bên trong hônnhân là một trong những điều kiện kèm theo cơ bản để hôn nhân gia đình có hiệu lực hiện hành. Hiện nay, pháp lý về hôn nhân gia đình và mái ấm gia đình của những nước đều ghi nhận : Không có hônnhân khi không có sự tự nguyện. Thứ hai : Tính bền vững và kiên cố ( đặc thù suốt đời ) của hôn nhân gia đình : Pháp luậthôn nhân và mái ấm gia đình Nước Ta luôn coi trọng tính bền vững và kiên cố của hôn nhân gia đình, vìtruyền thống mái ấm gia đình Nước Ta và xuất phát từ vai trò hôn nhân gia đình là cơ sở : xâydựng mái ấm gia đình no ấm, bình đẳng, văn minh, niềm hạnh phúc, vững chắc ( Điều 1, Luậthôn nhân và mái ấm gia đình Nước Ta năm 2000 ). Thứ ba : Tính chất một vợ một chồng : Trong xu thế văn minh xã hội ( đặcbiệt sự bình quyền giữa nam và nữ ), sự khẳng định chắc chắn cá thể con người ngàycàng lớn, đạo đức mới của con người không những phủ nhận kiểu hôn nhânmột chồng nhiều vợ, hoặc một vợ nhiều chồng như trước, mà yên cầu tình yêunam, nữ phải bộc lộ trong mối quan hệ thuỷ chung một vợ, một chồng. Thứ tư, hôn nhân gia đình chỉ sống sót giữa những người khác nhau về giới tính : Để bảo vệ mục tiêu của hôn nhân gia đình được triển khai ; đồng thời, để bảo vệ yếutố đạo đức truyền thống lịch sử và tính tự nhiên trong hôn nhân gia đình, pháp lý của đa sốcác nước trên quốc tế đều cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính ( ViệtNam pháp luật tại khoản 5, Điều 10 Luật hôn nhân gia đình và mái ấm gia đình năm 2000 ). Trong đó, 1 số ít nước coi hành vi kết hôn giữa những người cùng giới tính làtội phạm. Thứ năm : Tính chịu sự pháp luật của pháp lý : Cũng như những thiết chếxã hội khác hôn nhân gia đình phải chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của pháp lý. Pháp luật hônnhân và mái ấm gia đình những nước đều có những lao lý ngặt nghèo về kết hôn, quyền vànghĩa vụ của vợ chồng về chấm hết hôn nhân gia đình. 1.2. Lịch sử hình thành hôn nhân gia đình của người ViệtCác nhà dân tộc học, xã hội học đã tìm thấy những vật chứng là ngaytừ thuở bình minh của loài người thì sự tích hợp nam – nữ dù còn hoang dã, bán khai đã mang tính xã hội, tức là có văn hóa truyền thống. Việc cưới trong xã hội loàingười là biểu lộ của văn hóa truyền thống ( đối chọi với cái tự nhiên ). Nhờ có hôn lễ màcon người khác hẳn với loài vật ( không còn mang tính bản năng ). Các tài liệulịch sử, dân tộc học, khảo cổ học ở nước ta về nghành này còn gặp rất nhiềukhó khăn. Nếu địa thế căn cứ vào những thần thoại cổ xưa và lịch sử một thời còn lưu giữcho đến thời nay thì lịch sử một thời “ Sơn Tinh – Thủy Tinh ” là cổ nhất và mangvẻ đặc trưng nhất miêu tả về những tập tục hôn lễ của dân tộc bản địa ta. Tuy cái xãhội được phản ánh trong lịch sử một thời “ Sơn Tinh – Thủy Tinh ” đã cách chúngta mấy nghìn năm nhưng miêu tả về phong tục hôn lễ là rất rõ ràng, đơn cử, sinh động ( Ví dụ đoạn miêu tả lễ hỏi : “ một trăm ván cơm nếp, hai trăm tệpbánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chin hồng mao, … ). Việt Nam là một trong những Bách Việt cổ nên ngay từ thuở dựngnước đã chịu tác động ảnh hưởng của nền văn minh Trung Quốc. Nhưng phải đến thờiBắc thuộc, người Trung Quốc mới áp đặt những lễ giáo Khổng giáo một cáchcó mạng lưới hệ thống vào xã hội Nước Ta. Mặc dù hơn một ngàn năm bị lệ thuộcphong kiến Trung Quốc, có lúc nước ta phải trở thành Q., huyện của TrungQuốc, nhưng văn hóa truyền thống địa phương vẫn có sức sống mãnh liệt, không hề bị đồnghóa, trở thành truyền thống văn hóa truyền thống Nước Ta và ngược lại đồng điệu nền văn hóaTrung Quốc. Mặt khác, mặc dầu dân ta xưa kia chịu tác động ảnh hưởng của những lễnghi Trung Quốc nhưng do điều kiện kèm theo kinh tế tài chính, khí hậu, địa lí và những truyềnthống văn hóa truyền thống riêng không liên quan gì đến nhau gìn giữ truyền kiếp nên việc thực hành thực tế những lễ giáo ấycũng không trọn vẹn giống người Trung Quốc. Đặc biệt, từ sau thời kì Bắc thuộc, ý thức độc lập dân tộc bản địa của ngườiViệt Nam được đẩy lên cao. Tầng lớp phong kiến thời Lý, Trần đã ý thứcđược : sau khi giành lại độc lập tự chủ cho quốc gia thì yếu tố cốt yếu là phảitạo ra cho được một mạng lưới hệ thống phong hóa riêng cho mình. Đó chính là bản sắcvăn hóa Nước Ta. Với ý thức ấy năm 1483, Lê Thánh Tông phát hành LuậtHồng Đức gồm 721 điều về luật hình, luật hôn nhân gia đình và mái ấm gia đình, luật dân sựvà tố tụng, … tạo cho phong hóa nước nhà có cơ sở pháp lí vững vàng. Năm1663, vua Lê Huyền Tông đã phát hành điều giáo hóa : “ Vợ chồng là gốc luânthường. Lấy vợ gả chồng phải theo lễ nghĩa, không được suy bì giàu nghèo, đòi nhiều tiền của. Lấy nhau không phân biệt họ hàng, nòi giống, không đượctham giàu sang mà phối hợp loạn luân thường … ”. Nước Trung Hoa có Chu Công gia lễ, Chu Công lục lễ nhưng ở Nước Ta, thời nhà Trần, ông Hồ Sĩ Dương ( người làng Hải Thượng, sau ngụ ở HồngMai, huyện Thọ Xương nên có biệt hiệu là Thọ Mai cư sĩ ) đã soạn ra bộ sáchThọ Mai gia lễ để hướng dẫn con cháu thực hành thực tế nghi lễ trong hôn nhân gia đình vàtang chế. Sách này vừa đại trà phổ thông hóa những nguyên tắc cơ bản của KhổngNho, vừa dung nạp những phong tục địa phương của người Việt. Từ khi ra đờiđến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, sách Thọ Mai gia lễ đã có ảnhhưởng rất sâu đậm trong tập quán hiếu, hỷ của nhân dân ta. Tuy nhiên, khi nền giáo dục Tây học đã tương đối thông dụng ở những thànhphố lớn như TP HCM, TP.HN, Hải Phòng Đất Cảng, những tầng lớp người trẻ tuổi có học ở thànhphố đã tiếp thu những nét dân chủ tự do của tư tưởng phương Tây, thì nhữngmầm mống của tự do yêu đương dẫn đến hôn nhân gia đình đã Open. Nhiều họcsinh, tri thức muốn thoát khỏi vòng tay của cha mẹ trong nghành quyềnquyết định hôn nhân gia đình. Những điều này vẫn bị dư luận xã hội thời ấy phản đốiquyết liệt. Mãi tới sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếp đó là cuộc trường kìkháng chiến chống thực dân Pháp chín năm, cả dân tộc bản địa ta được giải phóng vềchính trị, tư tưởng, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống – xã hội, thì ý niệm, nếp nghĩ của nhândân ta đã đổi khác trong nghành hôn nhân gia đình. Những nghi thức cưới xin lúc nàythực sự thay đổi : một buổi lễ thành hôn với sự xuất hiện của hai họ, cô dâu chúrể, xóm làng hoặc hàng phố, trong đó đại biểu của chính quyền sở tại cơ sở tuyên bốcông nhận là đủ. Sau phần công bố công nhận khi nào cũng có một cuộc liênhoan mà văn nghệ là thành phần chính, kèm theo là tiệc trà rất đơn thuần, nhẹnhàng. Những nghi vật giá thú, hình thức cầu kì hầu hết bị xóa bỏ. Hôn nhân, hôn lễ thời kì ấy chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp, thâm thúy của “ văn hóa truyền thống kháng chiến ”. Thời ấy, nam nữ yêu nhau, cưới nhau không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, thậm chí còn có những đôi cưới nhau không cần có sự đồng ý chấp thuận của cha mẹ hai bên, miễn là họ khám phá rồi báo cáo giải trình với tổ chức triển khai, được tổ chức triển khai gật đầu thì tổchức cưới cho họ. Thực ra, quy mô hôn nhân gia đình này lúc đầu chỉ thực thi ởnhững người tham gia kháng chiến hay ở những chiến khu, nhưng sau này đãtrở thành phổ cập ở cả nông thôn, thành thị và trở thành “ mode ” của thời đại. Vào những thập niên 60 ( thế kỉ XX ), Bộ trưởng Bộ văn hóa truyền thống Hoàng MinhGiám đã quyết định hành động xây dựng “ Tổ Phong hóa ”, cử chiến sỹ Hà Huy Giáp Thứ trưởng kiêm Bí thư Đảng Bộ văn hóa truyền thống làm tổ trưởng. Tổ Phong hóa đãnâng cao nền phong hóa nước nhà phối hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Mùa thu năm 1968, chiến sỹ Hà Huy Giáp thay mặt đại diện tổ Phong hóa trình bàytrước tiểu ban lí luận văn hóa – giáo dục Trung ương một văn bản quan trọng : ” Vấn đề tái tạo và thiết kế xây dựng phong hóa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ởnước ta ”. Tài liệu khẳng định chắc chắn : “ Cải tạo và thiết kế xây dựng phong hóa là yêu cầuquan trọng vào bậc nhất của cách mạng nhằm mục đích góp thêm phần thiết kế xây dựng một xã hộimới với những con người mới. Trong đó đặc biệt quan trọng nhấn mạnh vấn đề đến việc xâydựng nếp sống mới trong việc cưới ”. Sau năm 1975, khi quốc gia ta trọn vẹn giải phóng, đời sống hòabình lập lại, dân cư Nước Ta muốn tìm ra một quy mô cho nghi lễ hônnhân tương thích. Tất nhiên, nghi lễ trong hôn nhân gia đình không hề trở lại như thờiphong kiến và cũng không hề tổ chức triển khai theo kiểu châu Âu, hay kiểu “ tuyênhôn ” như thời kháng chiến ở chiến khu. Về việc cưới hỏi thời đó, những hợptác xã miền Bắc đã thiết kế xây dựng những quy ước nhằm mục đích tổ chức triển khai đám cưới giản di, lành mạnh, vui tươi, đỡ tốn kém. Năm 1985, Bộ văn hóa truyền thống Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ ChíMinh đã phối hợp phát động kiến thiết xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa trong thanhniên. Hoạt động đặc biệt quan trọng nhấn mạnh vấn đề đến yếu tố thiết kế xây dựng nếp sống văn hóatrong việc cưới. Năm 1986, Ban chỉ huy nếp sống mới Trung ương đã banhành “ nghi thức cưới mới ” nhằm mục đích khai thác vốn văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn tốt đẹpcủa dân tộc bản địa, đồng thời xác lập nghĩa vụ và trách nhiệm của chính quyền sở tại nhân dân, tráchnhiệm của mái ấm gia đình, hội đồng trong hôn lễ. Đầu năm 1998, chỉ thi 27 – CT / TW của Bộ chính trị và thông tư 14 – 1998 / CT – TTg của Thủ tướng chínhphủ về “ việc thiết kế xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, liên hoan ” đã phát hành, đã tạo cho hôn lễ từ từ quản lý và vận hành đúng với xu thế của thời đại, cũng như đúng với quy luật sống sót của nó. 1.3. Cưới hỏi là gì ? Dân gian có câu : ” Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thật làkhó thay “. Cưới là nghi lễ truyền thống cuội nguồn quan trọng nhất của cả đời người, trong đó có nhiều những lễ nghi không hề bỏ lỡ, thế cho nên việc tổ chức triển khai một lễcưới dù theo phong thái truyền thống cuội nguồn hay văn minh cũng cần được nghiên cứuhết sức thận trọng. Cưới hỏi là một nghi lễ không hề thiếu tại bất kể quốc gianào trên quốc tế. Lễ cưới của người Việt được coi là một trong 4 nghi lễ quantrọng của đời người, gồm : quan, hôn, tang, tế. Về định nghĩa, lễ cưới hay đámcưới là một phong tục văn hóa truyền thống trong hôn nhân gia đình nhằm mục đích thông tin thoáng đãng về sựchấp nhận của xã hội và những bên thành hôn về cuộc hôn nhân gia đình. Với ý nghĩanày, lễ này còn gọi là lễ thành hôn. 1.4. Lịch sử hình thành và ý niệm của người Việt về cưới hỏi1. 4.1. Lịch sử hình thànhTổ tiên trực tiếp của loài người là giống động vật hoang dã sống thành bầy, chothấy loài người đã trải qua quá trình bầy người nguyên thủy – tập đoàn lớn sớmnhất của loài người. Tập đoàn đó sống sót trên cơ sở cùng kiếm ăn chung, cùngphòng ngừa chung sự xâm hại từ ngoại lai, và cố nhiên sau nữa quan hệ giữanam và nữ rất tự do và thậm chí còn là hơi hỗn loạn. Tình trạng hôn nhân gia đình xưa nhấtđó gọi là “ Tạp hôn ” ( Loạn hôn ), “ trong đó mỗi người đàn bà thuộc về nhiềungười đàn ông và ngược lại. Giữa ông bà, cha mẹ, con cháu, chị em đềukhông có sự hạn chế tính giao nào. Trong tình hình đó, con cháu chỉ biết đếnmẹ và đương nhiên việc nuôi dậy con cháu là việc làm hầu hết của người mẹ ”. Diễn biến của chủng tộc loài người về sau ngày càng đổi khác theo sự pháttriển của quan hệ xã hội, ở sự tăng trưởng trong mối liên hệ giữa những tậpđoàn khác nhau của loài người. Những điều đó sẽ dẫn tới sự hôn phối giữacác chủng tộc khác nhau, hình thành nên một kiểu hôn nhân gia đình thứ hai là “ Quầnhôn ”. “ Khác với loạn hôn, hình thức quần hôn không cho mọi việc kết hôntrong quần thể nguyên thủy, chỉ triển khai chính sách hôn nhân gia đình với những quần thểkhác ”. Hình thức hôn nhân gia đình này là một sự tân tiến đáng kể, nó đã hạn chế đượchậu quả xấu do việc hôn phối quần thể gây nên. Bước sang thời kì tổ chức triển khai “ Công xã thị tộc mẫu hệ ”, thời kì này sức sảnxuất tăng trưởng rõ ràng. Sự tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ của sức sản xuất chính là tiền đềcho những tập đoàn lớn sản xuất không thay đổi và đoàn kết. Mối giây liên hệ, ràng buộccác tập đoàn lớn này là do quan hệ dòng máu đem lại. Dòng máu đó được sảnsinh bởi sự liên hệ ngặt nghèo với nhau giữa hai thị tộc. Do đó, những nhân tốtrên đã tạo điều kiện kèm theo cho hình thức “ hôn nhân gia đình ngoại tộc ” sinh ra. “ Hônnhân ngoại tộc nghiêm cấm nam nữ trong cùng một thị tộc kết hôn với nhau. Các thành viên trong thị tộc, dù là nam hay nữ, cũng chỉ được phép kết hônvới một đối tượng người tiêu dùng ở thị tộc khác ”. Chế độ hôn nhân gia đình này là một bước tiến vôcùng quan trọng, nó không chỉ giữ gìn mối đoàn kết giữa những thành viên trongcùng thị tộc, hạn chế những xích míc phát sinh mà còn góp thêm phần quan trọngtrong việc duy trì nòi giống cho muôn đời sau. Trong xã hội thị tộc mẫu hệ tăng trưởng, trình độ tăng trưởng sảnxuất ngày càng vững mạnh. Lúc này đời sống vật chất khá không thay đổi, nhu cầutinh thần nhất là về tình cảm của con người lại càng yên cầu cao hơn. Trongquá trình cùng nhau lao động sản xuất, tình cảm giữa nam và nữ đã bắt đầunảy nở. Và nhất là phái đẹp họ mở màn có khao khát được ở bên cạnh mộtngười đàn ông để được san sẻ và cùng gánh vác việc làm, hình tháihôn nhân “ Đối ngẫu ” dần được hình thành. Đó là sự phối hợp của một cặp đôitương đối xác lập. “ Hình thái quá độ này đã lưu lại bước chuyển biếntừ chính sách quần hôn sang chính sách đối ngẫu hôn là sự “ chuộc tội ” của đàn bà : người ta chuộc mình ra khỏi trạng thái cộng chồng thời cổ và giànhlấy quyền chỉ hiến thân cho một người mà thôi. Tức là lúc này hìnhthức hôn nhân gia đình một nam một nữ đã được hình thành, tạo nên hình ảnh “ bạnđời trăm năm ” đầy ý nghĩa. “ Hôn nhân đối ngẫu là một cuộc cách mạng lầnthứ nhất về hôn nhân gia đình của loài người. Nếu trước kia trong những hình thứchôn nhân “ mông muội ”, người con sinh ra không biết mặt cha, khôngnhận được sự dưỡng dục từ cha thì nay nó sinh ra trong vòng tay yêu thươngấm áp của cả cha và mẹ. Đồng thời nó còn bảo vệ duy trì nòi giống cho thếhệ sau thôi thúc sự tăng trưởng và tân tiến của xã hội. Vào thời kì cuối của chính sách “ Thị tộc mẫu hệ ”, sức sản xuất phát triểnrất lớn đã kéo theo sự tăng trưởng của kinh tế tài chính, kéo theo sự đổi khác vị thế củađàn ông và đàn bà trong nền sản xuất xã hội và trong nền kinh tế tài chính gia đìnhchính là mấu chốt của sự chuyển từ chính sách mẫu quyền sang chế độphụ quyền. Cùng với quy trình quy đổi này “ hôn nhân gia đình đối ngẫu ” cũng pháttriển thành “ hôn nhân gia đình một vợ một chồng ”. Khi vị thế xã hội cũng như địa vịtrong lao động của người đàn ông đổi khác, thì người phụ nữ quay trở lại với bảnchất mà tạo hóa ban cho mình, đó là sự mềm yếu, cần được che chở vàthương yêu. Còn người đàn ông cũng khao khát được đem sức cường trángcủa mình để che chở cho những người phụ nữ. Trong quy trình lao động vấtvả, tình cảm luyến ái giữa nam và nữ đã khởi đầu nảy nở. Đặc biệt lúc nàynhận thức đã tăng trưởng cao độ, họ muốn tổng thể chỉ là của riêng mình. Dođó, họ muốn có một hình thức nào đó để thông tin cho mọi người biết, để hai người chính thức được trở thành vợ chồng, thiết kế xây dựng một cuộcsống riêng, vững chắc và vĩnh viễn. Theo đó hình thức hôn lễ hay còn gọi làcưới hỏi sinh ra. 10T rong thời kì “ Mẫu quyền ” thì hôn lễ được tổ chức triển khai ở nhà gái do người contrai phải đến đó ở rể. Sau đó khi xã hội chuyển sang chính sách “ Phụ quyền ” thìngười đàn ông lúc này liên hệ mật thiết với gia tộc của mình, dựa vào địa vịxã hội quan trọng mới giành được để đập tan trật tự hôn nhân gia đình của chính sách “ Mẫu quyền ”, đưa vợ về nhà mình ở. Và điều này đã trở thành quy luật trongcưới hỏi thời nay. Sự đổi khác vị thế lao động nhưng không phải ngườiphụ nữ không còn sức lao động. Họ vẫn đem lại những giá trị lao động lớntrong những ngành bằng tay thủ công. Do vậy, khi gia tộc có người đi lấy chồng, theolệ thường, đòi nhà trai một khoản bồi thường nhất định. Đó chính là dấu ấnvề những khoản tiền cheo, tiền cưới trong lễ nghi cưới hỏi thời nay. 1.4.2. Quan niệmTrong tâm thức người Việt thì lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứngnhận đăng ký kết hôn. Sự chăm sóc lớn của xã hội vào buổi lễ này đôi lúc gâysức ép lên những người tổ chức triển khai : họ phải bảo vệ để hoàn toàn có thể làm hài lòngnhiều người tham gia. Trước đây, trong lễ cưới Nước Ta, những người thamdự thường đem Tặng Kèm những đồ mừng đám cưới. Quà cưới thường sang trọng và quý phái, được bọc giấy điều. Trong đám cưới, ban lễ tân ( thường là người thân trong gia đình ) đứngra nhận quà mừng. Có những đám cưới tổ chức triển khai tiệc trà, đơn thuần hơn tiệccưới thường thì, có ý không nhu yếu người tham gia mang quà mừng. Cònngày nay, chỉ với những bè bạn thân thương của cô dâu và chú rể mới khuyến mãi ngay quàcưới cho hai người và ông bà cha mẹ với những người thân trong gia đình trong họ hàng, traoquà cưới làm của hồi môn cho đôi tân giai nhân. Còn lại tổng thể khách mời đềumừng bằng phong bì tiền, và đó là cách đơn thuần gọn nhẹ nhất, cũng tiện nhấtvà hợp ý của người tổ chức triển khai. Thời phong kiến, theo luân lý ” tam cương ngũ thường “, con cháu mà cócha khi nào cũng ở vị thế nhờ vào, việc hôn nhân gia đình của con cháu cha mẹ có quyềnđộc đoán và ” đặt đâu ngồi đấy “. Nếu con cháu không bằng lòng với người vợ haychồng mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự không cần biết11ái tình của con cháu, chỉ cốt tìm được nơi ” môn đăng hộ đối ” là cha mẹ nhờ ” mốilái ” điều đình để đính hôn. Ngoài ra, tuổi tác của cha mẹ cô dâu chú rể cũng đượccoi là yếu tố quan trọng của “ môn đăng hộ đối ”. Nếu hai bên cha mẹ cách biệtquá lớn về tuổi tác thì họ cũng không làm thông gia với nhau. Người xưa ý niệm mục tiêu cưới hỏi cốt duy trì gia thống cho nênviệc hôn nhân gia đình là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của concái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định hành động của cha mẹ. Nghĩavụ của mỗi người so với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau để ” vĩnhtruyền tông tộc ”, do đó luân lý cho người “ vô hậu ” là phạm điều bất hiếu rấtlớn. Việc hôn nhân gia đình không những chỉ có nguyên do huyết thống mà còn cónguyên nhân kinh tế tài chính. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tôngđường mà còn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho mái ấm gia đình nhà chồng. Hônnhân của đôi trai gái còn là việc xác lập mối quan hệ giữa hai mái ấm gia đình trướckia “ không quen biết ” nay trở thành thông gia. Vì vậy cần phải xem xét giađình đó có môn đăng hộ so với mái ấm gia đình mình hay không. Quan niệm về tầm quan trọng của một lễ cưới ngày này vẫn giữ nguyênvẹn. Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng không còn quá nhờ vào vào cộngđồng. Thực tế, quyền quyết định hành động ngày này phần lớn thuộc về đôi trẻ, cho dùgia đình có “ môn đăng hộ đối ” hay không. Việc này cũng được cho phép cô dâu vàchú rể được đặt tính cá thể của mình vào một lễ cưới nhiều hơn. Đứng vềphía pháp lý, chỉ cần đôi nam nữ có giấy đăng kí kết hôn là được pháp luậtbảo vệ. Tuy nhiên, ý niệm chung của toàn bộ những đôi bạn trẻ vẫn là kết hôn phảiđược sự đồng ý chấp thuận của hai bên mái ấm gia đình và thông tin tới họ hàng và bạn hữu. Có thể nói, đám cưới là một trong bốn nghi lễ quan trọng của đờingười, vì thế, đám cưới không chỉ dành riêng cho cô dâu, chú rể mà nó là mốiquan tâm cho cả mái ấm gia đình. Do đó, những mái ấm gia đình Việt ý niệm cần phải kiêngkị 1 số ít điều với hy vọng đời sống vợ chồng sau này sẽ suôn sẻ, hòa thuận, niềm hạnh phúc. 12C hương 2 : PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI VIỆT MIỀN BẮCXƯA ( TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XIX ) 2.1. Tuổi kết hônNgười Nước Ta nói chung và người miền Bắc nói riêng rất coi trọngvề yếu tố tuổi tác khi làm bất kể việc gì. Tuổi tác có đẹp, có hợp thì mọi việcmới suôn sẻ, tốt đẹp. Đặc biệt, trong chuyện cưới hỏi, tuổi tác để kết hôn cònquan trọng hơn khi nào hết. Theo ý niệm phong kiến, con gái con traithường độ mười lăm, mười sáu là đã hoàn toàn có thể dựng vợ gả chồng, hai mươi batuổi được gọi cưới muộn. Không chỉ hoàn toàn có thể, người ta còn cưới cho con cháu củamình từ tuổi mười hai, mười ba tuổi và cũng có nhiều mái ấm gia đình ước hôn từ lúccon còn trong bụng. 2.2. Các nghi lễHôn nhân xưa của người miền Bắc tương đối thống nhất về những lễ nghicơ bản. Theo hôn nhân gia đình truyền thống cuội nguồn ở nước ta từ xưa, tục cưới hỏi phải trảiqua sáu lễ : Lễ nạp thái, Lễ vấn danh, Lễ nạp cát, Lễ nạp chính, Lễ thỉnh kỳ, Lễ thân nghinh. 2.2.1. Lễ nạp thái ( Lễ chạm ngõ ) Sau khi mai mối tin đi tin lại, hai mái ấm gia đình thấy việc thăm hỏi động viên nhau cóthể thực thi. Nhà trai xin được đặt một cái lễ gọi là lễ nạp thái hay dân giancòn gọi là lễ chạm ngõ. Đúng ngày giờ tốt như đã thỏa thuận hợp tác, bà mối dẫn đầuđoàn nhà trai sang thăm nhà gái. Đoàn này thường gồm có những bậc cô, dì, chú, bác, … của chú rể và đặc biệt quan trọng, không hề thiếu là chú rể. Họ là nhữngngười có tài ăn nói, óc quan sát tinh xảo, tinh tế. Nội dung của lễ này là hai bên mái ấm gia đình trao đổi, thăm dò. Trong khi haibên trò chuyện, nhà gái kín kẽ cho cô gái mà nhà trai ướm hỏi ra chào hỏimọi người. Thường là cô gái ra mời trầu, mời nước. Cô gái chỉ Open một13lần rồi trở lại buồng riêng của mình. Đây cũng chính là thời cơ để nhà trai vàchú rể quan sát cô gái. Bà mối nhu yếu cô gái trang điểm nhẹ nhàng, giản dị và đơn giản, nhưng nhất thiết không được đội khăn mỏ quạ bịt kín gáy và hai tai. Bởi vìnhà trai và chú rể không chỉ quan sát mặt của cô gái mà còn ngắm nhìn cảtướng mặt gồm có cả mắt, mũi, miệng, … Khi đã quan sát kĩ lưỡng nét mặt, dáng đi, giọng nói, cử chỉ của cô gáithì nhất thiết trong họ nhà trai sẽ có một hai bà ra ngoài đi quan sát từ sân, ngõ, nhà bếp, chuồng trại chăn nuôi, … vì những chỗ đó bừa bãi hay ngăn nắp đềuđủ để nói lên tính cách của cô gái. Nếu nhà trai được nhà gái mời ở lại dùngbữa thì đó sẽ là dịp cho cô gái trổ tài nấu nướng của mình và là điều kiện kèm theo đểnhà trai đánh giá và thẩm định về công – dung – ngôn – hạnh của nàng dâu tương lai. Về thực chất, lễ nạp thái này chính là thời cơ để nhà trai đến thăm hỏi động viên, trò chuyện với nhà gái, thấy được tận mắt mái ấm gia đình nhà gái ( tránh được nhữnglời nói dối của bà mối ) và sau đó nhà trai sẽ quyết định hành động đi đến hôn lễ haykhông. Có nhiều mái ấm gia đình, sau lễ nạp thái này, hai bên nhà trai nhà gái trở nênkhăng khít và liên tục thực thi lần lượt những lễ tiếp theo. Đôi khi, cũng cónhững mái ấm gia đình sau lễ nạp thái bỏ dự tính kết hôn. Vì vậy, buổi ra đời nhà traiđòi hỏi nhà gái phải sẵn sàng chuẩn bị thật chu đáo, nhà cửa sửa soạn tươm tất, gọngàng để làm vừa mắt nhà trai. Bà mối cũng có vai trò rất là quan trọng trogvấn đề này, bởi lẽ họ sẽ là người thăm hỏi động viên, dò xét sở trường thích nghi, thái độ của họ nhàtrai để giúp nhà gái sửa soạn một cách tốt nhất. Ngược lại, bà mối cũng giúpnhà trai khắc phục những khiếm khuyết để không bị nhà gái phủ nhận. Nếu nhà gái nhận lễ thì bước tiên phong trong chặng đường hôn nhân gia đình coinhư đã xong. Nhưng đây không phải là lễ có ý nghĩa ràng buộc hai bên lại vớinhau. Nếu như một trong hai bên có dự tính hủy bỏ thì đều có thời cơ làm điềunày bởi lẽ nội dung của lễ nạp thái chỉ là cuộc thăm hỏi động viên thông thường của haibên mái ấm gia đình, họ không hề bàn tính gì về lễ cưới trong cuộc trò chuyện. 142.2.1.1. Lễ vậtLễ vật hầu hết của lễ nạp thái hay lễ chạm ngõ là trầu cau, ngoài những cóthể thêm chè, bánh kẹo tùy vào điều kiện kèm theo của từng mái ấm gia đình. Thường ở miềnBắc, số lượng mỗi loại lễ vật phải là chẵn, ví dụ hai gói chè, hai chục cau, haichục lá trầu, … 2.2.1. 2. Mối lái là gì và vai trò của bà mốiTrong xã hội phong kiến xưa “ Nam nữ thụ thụ bất thân ” nên hôn nhâncần phải người môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chêtrách là “ phải lòng nhau ” và “ mắc phải bùa yêu ”. Thường thì khi những con củamình đã đến tuổi lập mái ấm gia đình, những bậc cha mẹ thường nhờ đến ông mai bàmối tìm kiếm cho mái ấm gia đình họ một “ đám ” thông gia môn đăng hộ đối. Một sốtrường hợp mái ấm gia đình nhà trai đã tìm được nàng dâu vừa lòng cho con trai mìnhnhưng không dám thất thố nên phải nhờ tới những người mai mối mở lời trước. Ngày xưa, nghề “ mai mối ” rất thông dụng, người làm nghề này phải lànhững ông tơ bà nguyệt mưu trí mưu trí, có tài ăn nói linh động để seduyên cho những hai bạn trẻ. Khi lần tiên phong đến đặt yếu tố, người mai mối sẽ đimột mình, không mang theo lễ vật gì và cũng không hấp tấp vội vàng nói về chuyệncưới xin, mà chỉ “ đánh tiếng ” rằng có mái ấm gia đình nhà khác muốn kết thông gia. Người mai mối sẽ phải khôn khéo trình làng về mái ấm gia đình nhà trai và chàng traimuốn được làm con rể tương lai để cha mẹ cô gái xem xét. Nếu được gia đìnhcô gái đồng ý chấp thuận thì người mai mối sẽ về tranh luận với mái ấm gia đình nhà trai vàchọn ngày lành tháng tốt để nhà trai mang trầu cau sang nhà gái chính thứcđặt yếu tố. Trong trường hợp nếu mái ấm gia đình nhà gái có nhu yếu gì về mặt sínhlễ hay hai mái ấm gia đình có những vướng mắc trong quy trình diễn ra những nghi lễcưới hỏi, họ sẽ trải qua người mai mối để xử lý. Vai trò của bà mối chỉthực sự kết thúc khi đám cưới được diễn ra một cách suôn sẻ, toàn vẹn. Nhữngngười chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì bà mối sẽ trở thành ân15nhân suốt đời. Lễ tơ hồng xong, tạ bà mối 50% mâm xôi, nửa con gà kèmtheo chiếc áo lụa. Chẵn tháng con đầu lòng thế nào cũng cố mời bà mối đếndự để tỏ nghĩa tri ân. 2.2.2. Lễ vấn danhĐây là lễ mà nhà trai đến để hỏi tên tuổi của cô gái. Trong thời kìphong kiến, ở nhiều vùng nông thôn miền Bắc, con gái từ khi sinh đến khi lấychồng vẫn chưa đặt tên, nếu như mái ấm gia đình không cho con gái đi học. Con gáikhông cần vào sổ họ, sổ làng, không đi học nên cũng không cần dặt tên vội. ởtrong nhà con gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con Chắtem, … Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo tên đó. Đến làm lễ vấndanh, ông bác hoặc bố mới đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khichính người mang tên cũng không biết mình mang tên gì trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên chồng, khi có con gọi theo tên con, cócháu đích tôn gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên mà chủyếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định hành động đôi nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy đượcnhau, tuổi xung khắc thì thôi. 2.2.2. 1. Lễ vậtNhà trai trải qua người mối cử một đoàn gồm vài ba người với lễ vậtgồm chè, rượu, trầu cau đến nhà gái. 2.2.2. 2. Cách thức tiến hànhKhi nhà trai đến thì nhà gái đưa ra một tờ giấy, trong đó ghi không thiếu họtên, ngày, tháng, năm sinh của cô gái, đôi lúc còn gồm có cả giờ sinh nếunhà trai nhu yếu. Có những trường hợp, gia chủ nhà trai là người thận trọng, giỏi về chữ nghĩa còn gửi thư ( qua đoàn nhà trai ) sang bên nhà gái nhằm mục đích bàytỏ lễ nghĩa và lòng thành tâm của mình. Nhà gái tiếp đón lễ, sau đó tiếp tụcdâng thư cùng lễ vật lên bàn thờ cúng để báo cáo giải trình từ đường. Để đáp lại lễ nghĩa củanhà trai, nhà gái cũng viết thư đưa gửi lại cho nhà trai và tiễn đưa họ về. Ý16nghĩa của lá thiếp là đế so tuổi hai bên nam nữ xem có tương sinh, tương hợphay không. Đây chỉ là một hình thức tin vào lá số, cung, mệnh của dân gian. 2.2.3. Lễ nạp cátLễ này trong dân gian còn gọi là lễ đám cưới. Sau lễ vấn danh, đôi bênthấy hợp tuổi nhau thì bên nhà trai liền đánh tiếng để tiến hành lễ đám cưới. Lễnạp cát thường được tổ chức triển khai vào ngày lành, tháng tốt. Nhà trai thường hỏi ýkiến của nhà gái về những nghi thức đơn cử và lễ vật. Nếu nhà gái muốn số lượnglễ vật nhiều thì chỉ bày tỏ một cách ý tứ : mái ấm gia đình nội, ngoại đông, bạn bènhiều, … để nhà trai thuận tiện biện lễ. 2.2.3. 1. Lễ vậtỞ nông thôn miền Bắc thời kì phong kiến thì lễ vật hầu hết là mộtbuồng cau to khoảng chừng ba bốn trăm quả phải nguyên buồng và có cuống râu dài, dăm chai rượu trắng, một mâm xôi gấc, một cái thủ lợn. Ở thành phố thì cóxôi gấc, lợn quay, trà, rượu hồng, bánh trái, trầu cau, … Đây là những lễ vậtđối với những mái ấm gia đình khá giả, còn những mái ấm gia đình nghèo thì lễ vật đa phần làcau trầu, không chè, rượu với số lượng ít. Các đồ lễ mang sang nhà gáithường được để trên những chiếc mâm đồng mới và bên trên phủ vải đỏ. 2.2.3. 2. Thành phần tham giaThành phần đoàn đám cưới nhà trai có bố, mẹ, ông, bà hai bên nội, ngoại. Nếu ông nội chú rể còn sống thì ông đi thay cha mẹ. Họ nội phải có ông trưởnghọ và bác của chú rể. Những người mang đồ lễ sang nhà gái phải là nam nữtrong họ nội. Đoàn đi đám cưới mặc áo the, đầu đội khăn xếp. Trong lễ hỏi bắtbuộc phải có chú rể đi cùng vì đây là lần đầu ra đời mái ấm gia đình và họ hàng bênnhà vợ. 2.2.3. 3. Các việc cần làmBên nhà gái trong dịp này thường mời bà con thân cận nhất đến thamdự lễ hỏi và làm cơm thiết đãi nhà trai. Cô dâu chỉ cần ăn mặc ngăn nắp hơn17ngày thường. Trước lúc nhà trai tổ chức triển khai lễ đám cưới, thường phải lễ gia tiên vàcúng nhà thời thánh họ. Khi đến nhà gái, người đứng vị trí số 1 ( ông nội, trưởng họ ) dâng lễđưa lễ cho nhà gái. Nhà gái ra nhận lễ và đưa một chút ít lễ vật lên bàn thờ cúng. Sau đó, bố cô dâu thắp hương khấn vái và thông tin với tổ tiên. Nội dung đa phần trong lễ hỏi là mái ấm gia đình nhà trai đặt yếu tố chính thứcvới nhà gái và nhà gái đồng ý con rể, thông gia. Nếu lễ hỏi gần với lễ cướithì hai bên sẽ bàn tới ngày cưới. Lễ hỏi thường lê dài khoảng chừng ba mươi phútđến một giờ. Cô dâu tương lai phải đi đun nước và mang nước lên mời mọingười, chú rể thì ngồi im một chỗ. Sau khi được sự được cho phép của hai mái ấm gia đình, chú rể mới được xuống nhà bếp cùng cô dâu. Trước khi nhà trai ra về có tục “ lại quả ” cho nhà trai. Nhà gái chia mộtphần lễ vật cho nhà trai mang về. Riêng so với cau, khi chia phải xé, khôngđược cắt. Phần vật lễ còn lại nhà gái dung để chia cho họ hàng. Chia bánh, cau, chè, … phải chia theo số chẵn. Việc chia đồ lễ này có ý nghĩa nhà gáimuốn thông tin cho bè bạn, họ hàng, lối xóm biết con gái mình đã đính hôn. Trước đây, trong thời kì phong kiến, sau lễ đám cưới không tổ chức triển khai lễcưới ngay mà tối thiểu là ba tháng, thông thường là một năm hoặc nhiều nhất làba năm. Sau lễ hỏi, theo ý niệm phong kiến ở miền Bắc, trai gái đã gầnnhư chính thức là vợ chồng, hai bên đã thành thông gia, thế cho nên, họ phải thựchiện những nghĩa vụ và trách nhiệm như khi đã thành gia thất. Trong thời hạn này, chàng rểphải tiếp tục đi lại thăm hỏi động viên mái ấm gia đình nhà vợ, chăm nom người già khiđau ốm, giúp việc khi có việc. Bổn phận tiên phong của chàng rể là phải “ sêutết ”. “ Sêu ” tức là mùa nào thức ấy, chàng rể phải mang lễ vật sang biếu bố mẹvợ chưa cưới. Vào những dịp tết, chàng rể cũng phải sang tết cha mẹ vợ. Trongthời gian này, nếu mái ấm gia đình nhà vợ có tang thì vẫn phải để tang như con rểbình thường. Vào những dịp lễ giỗ, chàng rể phải đem lễ vật cúng sang nhà gáiđể bày tỏ lòng yêu dấu vợ cũng như ý thức, bổn phận và chứng tỏ sự gia18giáo của mái ấm gia đình mình. Có những mái ấm gia đình nhà gái hiếm con, sau khi tiếnhành lễ đám cưới thường bắt chàng trai ở rể từ một đến ba năm rồi mới cho cưới. Thời gian ở rể cũng là khoảng chừng thời hạn thử thách : từ lao động đến cách đốinhân xử thế, … Chính vì thế, chàng rể thường thao tác không tiếc sức, vui tươi, hòa nhã với mọi người. Cô dâu cũng cần phải sang nhà trai khi có việc làm lớn. Gia đình nhàtrai có tang, cô dâu cũng phải để tang như con dâu thông thường. Sau lễ đám cưới, cô dâu chú rể không được phép gặp nhau, trừ trường hợp đặc biệt quan trọng lắm thì đôibên cha mẹ mới được cho phép. 2.2.4. Lễ nạp chínhSau khi nhà trai “ sêu tết ” đều đặn, mối quan hệ của hai bên gia đìnhcũng trở nên khăng khít, nhà trai xem tuổi hợp duyên đôi bên và được nhà gáichấp thuận ngày, giờ cưới, lúc đó nhà trai chuẩn bị sẵn sàng đồ sính lễ để đến xin cưới. Tùy theo nhu yếu của nhà gái mà đồ lễ nhà trai mang tới là hiện vật hay tiềnmặt. Đây là bước thách cưới. Có những nhà gái yên cầu đủ thứ và nhu yếu nhàtrai phải phân phối toàn bộ. Tuy nhiên, có khi nhà gái đòi mười thì nhà trai chỉ cóthể lo được một, hai. Trong thời hạn này, tình cảm của hai bên cũng có đôiphần bị tổn thương. Các đồ sính lễ do nhà gái tự shopping là phục trang của cô dâu, riênghoa tai, xà tích do mẹ chú rể mang sang khi đi xin dâu cùng bà mối. Trước lễcưới hai đến ba ngày, nhà trai thực thi đi xin dâu và khi nào cũng đi vàobuổi sáng. Đoàn đi xin dâu gồm mẹ chú rể, bà mối và một số ít bà con họ hàng. Trước khi đi xin dâu, nhà trai làm lễ cáo gia tiên. Đến nhà gái, đồ lễ vật đãđược nhà trai bày ra sân, còn trầu cau, tiền, bánh được đưa vào nhà đặt lênbàn thờ để trình báo tổ tiên nhà gái. Lễ vật mà nhà trai dẫn cưới thường gồm có ba lễ mặn. Đây là ba lễ bắtbuộc dù cho mái ấm gia đình nhà trai giàu hay nghèo : 19L ễ nhà tộc trưởng bên vợ. Lễ tại nhà thời thánh cậu của vợ. Lễ gia tiên tại nhà. 2.2.5. Lễ thỉnh kỳTức là nhà trai hẹn ngày xin cưới. Sau lễ nạp chính, nhà trai ra về vàhẹn nhà gái ngày, giờ đón dâu. 2.2.6. Lễ thân nghinh ( Lễ đón dâu, rước dâu ) Lễ thân nghinh là lễ mà nhà trai sang nhà gái đón dâu về, chính vì vậymà thường được chuẩn bị sẵn sàng sang chảnh, nhã nhặn. Việc tổ chức triển khai dịp nghỉ lễ này cầnphải kiêng cự 1 số ít điều như : bản thân cô dâu, chú rể không ở thời hạn đạitang, ngày giờ cưới phải tránh những ngày kiêng cự ( giờ sát, … ) và đồng thời tránhtháng ngâu tức là tháng bảy Âm lịch. Sau khi đã định xong ngày, giờ đón dâu, chủ hôn cử người mang trầucau đi đến mời ông cầm hương. Ông là người sẽ cầm bó hương đứng vị trí số 1 đámcưới dâu. Thường thì sẽ chọn người đứng tuổi, phúc hậu, mái ấm gia đình nề nếp, vợchồng song toàn, con cháu đông đúc, hòa thuận và đặc biệt quan trọng là mái ấm gia đình khôngcó tang chế. 2.2.6. 1. Trang phục của cô dâu, chú rểTrong ngày cưới, những cô dâu miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoàicùng là chiếc áo the thâm, bên trong ẩn hiện hai chiếc áo màu hồng và màuxanh hoặc màu vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng, ở đầu cuối làchiếc yếm hoa đào có dải bằng lụa bạch. Thắt lưng gồm hai chiếc bằng lụamàu hoa đào, hoa lý, ngoài cùng là thắt lưng sồi xe hay vải sa màu đen, cả bathắt sống lưng đều có tua ở hai đầu. Lúc bấy giờ kiểu trang điểm cho mái tóc thậtđơn giản, chỉ là vấn khăn, đầu khăn gài chiếc đinh ghim, có đính con bướmvàng chạm bạc, để tóc đuôi gà. Lúc đưa dâu, đi đường đội nón thúng quaithao ( đa phần là để che mặt cho đỡ thẹn với mọi người ). Chân đi dép cong. 20 Ðồ trang sức đẹp có khuyên đeo tai bằng vàng hoặc bằng bạc, cạnh sườn đeo bộxà tích, con dao, ống vôi … bằng bạc chạm trổ phức tạp. Trang phục trong ngày cưới thường thì mặc áo thụng bằng gấm hay themàu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiều màu lam, chân đi văn hàithêu đẹp. 2.2.6. 2. Các nghi lễ chủ yếuKhi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn sắp xếp, chỉnh đốn lại thứ tự. Cụ già cầm hương cùng với một người đội lễ trầu cau và rượu vào trước. Mâm lễ ấy được đặt lên bàn thờ cúng, cụ già thắp hương vái, nhà gái vái đáp lễ trảlại, rồi một vị đứng đầu họ nhà gái cùng ra nghênh đón đoàn xin dâu vào. Sauđó, cô dâu và chú rể cùng nhau đứng vái lạy trước bàn thờ cúng tổ tiên, xin phépgia tiên cho họ được cầm khay trầu đi mời họ hàng, bạn hữu. Khi mời, cô dâuphải dữ thế chủ động mời trước để chú rể còn biết cách xưng hô. Trước khi về nhàchông, cô dâu quỳ lạy ông bà, cha mẹ mình. Những người này thường ngồi ởphía cửa chính và cha mẹ cô dâu sẽ khuyến mãi cho cô một vật gì đó làm kỉ niệm, vínhư hoa tai, nhẫn cưới, một chút ít quan tiền, quạt, … Ông bà, cha mẹ còn dặn dòcon cháu vài lời trước khi về nhà chồng. Và sau đó, chủ hôn nhà trai sẽ nóivới chủ hôn nhà gái ngày giờ tốt để đón dâu và lúc này, đoàn đón dâu bắt đầuvề nhà trai. Khi đoàn đón rước dâu về gần đến nhà, một người trong đoàn đi vềtrước để thông tin cho mái ấm gia đình. Nhà trai chờ đoàn đón dâu và đến ngõ thì đốtmột tràng pháo. Trước lúc đoàn đón dâu vào cổng, mẹ chồng thường mangbình vôi tránh sang nhà hàng xóm. Sau khi đoàn đón dâu đã yên vị, mẹ chồngmới lặng lẽ đặt bình vôi vào chỗ cũ và ra tiếp chuyện. Trước cửa nhà trai thường đặt một hỏa lò than hồng, cô dâu phải bướcqua để đốt đi những vía dữ cô gặp trên đường. Ở nhiều nơi còn có tục chăngdây, đóng cổng làng, cổng ngõ. Nhà trai phải chịu tục này khi lấy vợ làng21khác do một số ít người bên làng nhà gái tổ chức triển khai. Còn so với những đám trailàng lấy gái làng thì có tục chăng dây ngõ hay đóng cổng vào nhà gái. Hìnhthức thông dụng là trên đường dẫn vào nhà gái, người ta để một chiếc bàn nhỏ. Trên bàn có một lọ hoa và một sợi chỉ chăng ngang đường. Khi đoàn nhà traiđến, người ta đốt một bánh pháo ý niệm chào và đợi ý tứ của nhà trai. Bố chúrể phải có lời xin và đưa một chút ít tiền mừng xin phép cởi dây. Sau khi cô dâu chú rể về nhà chồng, họ phải làm lễ gia tiên và lễ lạy bốmẹ chồng. Cô dâu quỳ lạy hai lạy và cha mẹ chồng sẽ khuyến mãi cho cô dâu mộtmón quà. Tại đây, cô dâu, chú rể cũng lạy cả những người bề trên bên nhàchồng và họ Tặng Ngay lại quà cho họ. Sau đó, mấy chị em họ nhà chồng đưa côdâu đi lễ nhà thời thánh họ. Tiếp theo, cô dâu trở lại nhà chồng và làm lễ “ tơ hồng ”. Lễ tơ hồng thường tế ngoài trời phía trước sân nhà. Bàn tế thường thiết lậpngay sau khi đoàn đón dâu vào nhà, gồm có : hương án, bát hương, bài vị, haicây nến và một mâm cỗ. Ông cầm hương khấn trước, cô dâu lễ ngồi và chú rểlễ quỳ. Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trước hương án, lạy bốn lạyrồi quỳ. Hai bên hương án có hai người chấp sự, một người đọc văn tế, mộtngười rót rượu, lễ mừng chủ tế một tuần rượu. Văn tế viết trên giấy hồngđiều, đọc xong dìm vào chậu nước đặt trước hương án. Khi văn tế tơ hồngxong, cô dâu chú rể mỗi người bốn lễ và cùng nhau uống chung một ly rượu. Sau đó, hai người ăn một miếng trầu, têm chung một quả cau và một lá trầu. Lễ tơ hồng thường chỉ diễn ra khoảng chừng mười lăm đến ba mươi phút. Ngoài ra, cưới hỏi thời kì phong kiến ở miền Bắc còn sống sót 1 số ít tụclệ nữa tương đối phức tạp trước khi diễn ra lễ thân nghinh ( lễ đón dâu, lễcưới ). * Lễ nộp cheoNgày xưa khi chưa có luật lệ bắt buộc trai gái kết hôn với nhau phảilàm giấy giá thú hay đăng kí kết hôn như ngày này, vì thế để bảo vệ quyền22
Source: https://thoitrangredep.vn
Category: Cưới Hỏi