Tiểu luận Hôn nhân gia đình – Kết hôn trái pháp luật và quy định PLVN hiện hành – BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO – StuDocu
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
&
Mục lục
TIỂU LUẬN MÔN:
LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Tên đề tài:
Kết hôn trái pháp luật và quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. HNGĐ: Hôn nhân và Gia đình
2. BLDS: Bộ luật Dân sự 2005
3. BLTTDS: Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
4. CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
5. TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP: Thông tư
liên tịch số 01/1016/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn
thi hành quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
6. Nxb: Nhà xuất bản
7. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
8. VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
9. BTP: Bộ Tư pháp
luật như “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình
xã hội hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ ngành Luật Dân sự của Nguyễn Huyền Trang 2.
Hay “Hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014”, Luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng
dân sự năm 2016 của Nguyễn Tài Dương 3.
Ngoài ra còn có một số bài báo, tạp chí chuyên ngành được đăng tải trên các Tạp
chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát,… đề cập đến việc kết hôn trái pháp luật và hủy
kết hôn trái pháp luật như “Về giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật, kết hôn không
đúng thẩm quyền và nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn” của tác giả PGS Nguyễn Thị Lan – trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 năm
2019 được phát hành ngày 10/4/2019…
Có thể thấy, vấn đề kết hôn trái pháp luật đã được các tác giả nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau nhưng đa số dựa trên những quy định của Luật HNGĐ 2000
và chưa cập nhật hết các vấn đề mới về lý luận và thực tiễn. Bài tiểu luận của chúng
em sẽ thể hiện được góc nhìn mới, quan điểm mới phù hợp với thực trạng cũng như
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – Luật HNGĐ 2014.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nhìn nhận bao quát đề tài dưới nhiều góc độ
khác nhau từ lý luận cho đến thực tiễn nhưng sẽ tập trung vào các quy định trong pháp
luật Việt Nam hiện hành về việc kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái pháp luật,
chủ yếu là Luật HNGĐ 2014.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
– Nhằm làm rõ các vấn đề lý luận kết hôn trái pháp luật trong lĩnh vực HNGĐ;
– Làm sáng tỏ khái niệm, các yếu tố dẫn đến việc kết hôn trái pháp luật, chủ thể
có thẩm quyền, căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật;
– Đưa ra cách thức xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật theo quy định của
Luật HNGĐ 2014;
– Nhìn nhận thực trạng kết hôn trái pháp luật ngày nay, từ đó nêu ra những bất
cập cũng như kiến nghị phương thức giải quyết hợp lý, có khả năng thi hành, góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Các vấn đề lý luận về kết hôn trái pháp luật,
hủy kết hôn trái pháp luật – đặc biệt là các quy định trong Luật HNGĐ 2014. Đồng
2 Tác giả hầu hết đề cập đến những yếu tố lý luận xung quanh ý niệm kết hôn trái pháp lý, những pháp luật về kết hôn trái pháp lý trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như thực tiễn kết hôn trái pháp lý lúc bấy giờ. 3 Luận văn tập trung vào góc nhìn hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp lý, do được viết sau khi Luật HNGĐ năm năm trước có hiệu lực hiện hành nên tác giả đã nghiên cứu và phân tích được 1 số ít điểm mới, cũng như chưa ổn việc vận dụng pháp lý hiện hành, từ đó đề xuất kiến nghị giải pháp để sửa đổi .
thời, tìm hiểu về thực trạng kết hôn trái pháp luật trong xã hội ngày nay, thông qua đó
đề ra các phương hướng và giải pháp mang tính khả thi cao.
Phương pháp nghiên cứu: Tập trung sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết
cụ thể như phương pháp khái quát, phân tích và tổng hợp, phân loại và hệ thống hóa lý
thuyết. Dựa trên nền tảng và xuất phát điểm là các tri thức lý luận (các quan điểm, lý
thuyết), từ đó đi sâu vào bản chất của vấn đề cần nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện,
bao quát đối với thực tiễn cuộc sống.
5. Ý nghĩa thực tiễn của và kết cấu đề tài nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu các vấn đề được đặt ra, bài tiểu luận đã thể hiện một cách
chi tiết về việc kết hôn trái pháp luật và các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành. Từ đó nêu ra những bất cập, thiếu sót khi áp dụng pháp luật cho tình huống thực
tiễn, nhằm đề xuất phương hướng hoàn thiện Luật HNGĐ góp phần nâng cao nhận
thức, sự hiểu biết của mỗi người trong quy định về hôn nhân, làm giảm tỷ lệ người dân
kết hôn trái pháp luật.
Nội dung của bài tiểu luận gồm 3 chương (không tính Lời mở đầu, Kết luận và
Danh mục tài liệu tham khảo):
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kết hôn trái pháp luật và hủy kết hôn trái
pháp luật theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về hủy kết hôn trái pháp luật.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết của pháp luật Việt Nam về xử lý hủy kết hôn
trái pháp luật – Phương hướng và giải pháp.
Bạn đang đọc: Tiểu luận Hôn nhân gia đình – Kết hôn trái pháp luật và quy định PLVN hiện hành – BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO – StuDocu
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc kết hôn, tại khoản 5 Điều 3 Luật HNGĐ
2014, các nhà làm luật đã quy định về khái niệm kết hôn như sau: “ Kết hôn là việc
nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện
kết hôn và đăng ký kết hôn”. Đồng thời điều kiện kết hôn như thế nào, trình tự thủ tục
kết hôn ra sao, pháp luật nước ta cũng đã có những quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người kết hôn được Nhà nước công nhận và bảo hộ.
1.1. Điều kiện kết hôn theo pháp luật
Điều kiện kết hôn là những đòi hỏi về mặt pháp lý đối với hai bên nam, nữ và chỉ
khi thỏa mãn những đòi hỏi đó thì nam, nữ mới có quyền kết hôn. Luật HNGĐ 2014
quy định việc kết hôn phải tuân theo các điều kiện tại khoản 1 Điều 8 của Luật này 7.
Theo đó:
Về độ tuổi: Pháp luật nước ta chỉ quy định độ tuổi tối thiểu được phép kết hôn,
nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên và tuổi được tính theo tuổi tròn dựa
vào ngày, tháng, năm sinh.
Về sự tự nguyện: Sự tự nguyện ở đây được hiểu là mong muốn gắn bó, cùng
chung sống với nhau để thỏa mãn nhu cầu tình cảm của hai người. Nam, nữ tự quyết
đối với việc kết hôn một cách chủ quan theo ý muốn của họ và không bị tác động bởi
bất kỳ ai. Tính tự nguyện sẽ được thể hiện thông qua việc nam, nữ cùng trực tiếp ký
chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Về năng lực hành vi dân sự: Theo quy định thì người kết hôn phải là người
không bị mất năng lực hành vi dân sự và điều kiện để bị coi là một người mất năng lực
hành vi dân sự sẽ căn cứ theo khoản 1 Điều 22 BLDS 2015 8. Quy định này nhằm đảm
bảo tính tự nguyện, bảo vệ sự lành mạnh, chất lượng nòi giống, cũng như quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ chồng – con cái.
Việc kết hôn không thuộc các trường hợp cấm kết hôn: Theo quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 8 và khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ 2014.
7 Khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ năm năm trước. “ 1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo những điều kiện kèm theo sau đây : a ) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên ; b ) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định hành động ; c ) Không bị mất năng lượng hành vi dân sự ; d ) Việc kết hôn không thuộc một trong những trường hợp cấm kết hôn theo pháp luật tại những điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này ”. 8 Khoản 1 Điều 22 BLDS năm ngoái. “ 1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không hề nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo nhu yếu của người có quyền, quyền lợi tương quan hoặc của cơ quan, tổ chức triển khai hữu quan, Tòa án ra quyết định hành động công bố người này là người mất năng lượng hành vi dân sự trên cơ sở Kết luận giám định pháp y tinh thần. Khi không còn địa thế căn cứ công bố một người mất năng lượng hành vi dân sự thì theo nhu yếu của chính người đó hoặc của người có quyền, quyền lợi tương quan hoặc của cơ quan, tổ chức triển khai hữu quan, Tòa án ra quyết định hành động hủy bỏ quyết định hành động công bố mất năng lượng hành vi dân sự ” .
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.2. Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Từ khái niệm và những điều kiện kết hôn đã phân tích như trên, thì khi đăng ký
kết hôn nếu hai bên nam nữ thỏa mãn đủ theo các điều kiện được pháp luật quy định
về độ tuổi, về sự tự nguyện, về năng lực hành vi dân sự và không thuộc trường hợp
cấm kết hôn, thì hôn nhân đó được xem là hợp pháp, có giá trị pháp lý. Nếu vi phạm
điều kiện kết hôn thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật. Quyền kết hôn là quyền của
mỗi người, nhưng khi kết hôn thì họ phải tuân thủ theo sự điều chỉnh của pháp luật,
phải tuân thủ các điều kiện mà Nhà nước đặt ra, như Các khẳng định tại Bản dự luật
về ly hôn: “Không ai bị buộc phải kết hôn nhưng ai cũng buộc phải tuân theo Luật
Hôn nhân một khi người đó kết hôn. Người kết hôn không sáng tạo ra hôn nhân, cũng
như người bơi lội không sáng tạo, không phát minh ra tự nhiên và những quy luật về
nước và trọng lực. Vì thế, hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn
mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân” 9_._
Như thế, kết hôn trái pháp luật là một khái niệm pháp lý được pháp luật quy định
và được điều chỉnh bởi Luật HNGĐ, hiện nay là Luật HNGĐ 2014. Theo khoản 6
Điều 2 Luật này quy định: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết
hôn theo quy định tại Điều 8 Luật này”. Có thể hiểu, kết hôn trái pháp luật là hình thức
kết hôn không được pháp luật thừa nhận, dù việc kết hôn này được cơ quan hộ tịch cấp
Giấy chứng nhận kết hôn nhưng việc kết hôn không làm phát sinh quan hệ vợ chồng
giữa hai chủ thể do vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định. Và để xác định xem đâu
là kết hôn trái pháp luật thì cần phải đáp ứng đủ hai tiêu chí:
Thứ nhất, việc kết hôn đảm bảo điều kiện hình thức (tức là có tiến hành đăng
ký kết hôn);
Thứ hai, việc kết hôn vi phạm điều kiện nội dung (tức điều kiện kết hôn).
Kết hôn trái pháp luật là một hành vi vi phạm pháp luật, do quan hệ hôn nhân
không được Nhà nước công nhận nên việc kết hôn trái pháp luật sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên chủ thể. Bên cạnh đó, hành vi kết hôn trái
pháp luật còn tác động tiêu cực đến trật tự xã hội, làm lệch lạc suy nghĩ của giới trẻ,
gia tăng tỷ lệ phạm tội, tệ nạn xã hội. Ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động cũng như các
chính sách quản lý của Đảng và Nhà nước ta, khiến cho các cơ quan khó có thể nắm
bắt chính xác số liệu, vấn đề về hộ tịch, khai sinh, các vấn đề khác để giải quyết khi
phát sinh tranh chấp. Việc để hiện tượng kết hôn trái pháp luật ngày càng phổ biến
9 Các – Ph. Ăngghen ( 1998 ), “ Bản dự luật về ly hôn ”, Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, ( tập 1 ), Nxb Sự thật, TP. Hà Nội .
lệ của người H’Mông. Ngoài ra còn các hủ tục khác như tục tảo hôn, hôn nhân cận
huyết… Đây đều là những cuộc hôn nhân trái pháp luật, là phong tục tập quán lạc hậu,
lỗi thời, trở thành vật cản, gánh nặng truyền đời đối với cộng đồng người, nhất là các
dân tộc thiểu số. Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa. Các hủ tục vẫn có thể
thay đổi nếu những người đang sống tại nơi tồn tại những hủ tục được giáo dục tốt 11.
Về con người – khả năng hiểu biết và trình độ nhận thức
Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng tỷ lệ kết hôn trái pháp luật là sự
hiểu biết, khả năng nhận thức và tư duy của mỗi người. Tuy tác hại của việc kết hôn
trái pháp luật đã được tuyên truyền, phổ biến trong cộng đồng, nhưng việc mang pháp
luật đến gần hơn với mọi người vẫn còn bị hạn chế ở nhiều vùng miền, nhất là ở những
vùng cao, vùng xa hẻo lánh, thiếu thốn nhiều điều kiện, người dân có trình độ thấp,
khó lòng tiếp xúc với các phương tiện thông tin chính thống, không được phổ cập kiến
thức về pháp luật đầy đủ và kịp thời. Ở các vùng này, việc kết hôn hầu hết đều theo
phong tục, tập quán tổ tiên truyền lại mà không tuân thủ theo quy định của pháp luật,
có nhiều người dân chỉ làm đám cưới ở bản làng mà không tiến hành đăng ký kết hôn.
Không chỉ ở vùng thôn quê xa xôi, mà cũng có rất nhiều người ở vùng thành thị
có tư tưởng lệch lạc, vi phạm chuẩn mực, đạo đức xã hội, chẳng hạn như việc ngoại
tình. Ở Việt Nam, ngoại tình là vấn đề đáng bị lên án trong xã hội nhưng một số đàn
ông Việt Nam vẫn cho đó là bình thường, bởi với họ chuyện ngoài luồng thường là để
giải tỏa cảm xúc chứ ít khi là tình yêu. Có thể thấy quan niệm của mỗi người ảnh
hưởng rất nhiều đến nhận thức và hành vi của họ. Quan niệm, suy nghĩ lệch lạc sẽ dẫn
đến hành vi sai trái, chỉ khi có hiểu biết đầy đủ, tư duy hiện đại nhưng phù hợp thì con
người mới có được xử sự đúng đắn, góp phần nâng cao sự tiến bộ xã hội.
1.1. Khái niệm hủy kết hôn trái pháp luật
Kết hôn trái pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người kết hôn, gia đình
và xã hội, vì thế, cần phải có những biện pháp xử lý phù hợp đảm bảo cho các điều
kiện kết hôn được tuân thủ một cách chặt chẽ. Theo quy định của Luật HNGĐ 2014,
các biện pháp xử lý kết hôn trái pháp luật gồm: Hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc
xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào chủ
thể, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm. mà áp dụng các biện pháp khác nhau.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là biện pháp tiêu hôn được đề cập
khá sớm trong lịch sử pháp luật HNGĐ Việt Nam, tuy nhiên vẫn chưa có văn bản nào
giải thích “hủy việc kết hôn trái pháp luật”. Có thể hiểu, hủy việc kết hôn trái pháp luật
là biện pháp làm cho việc kết hôn trái pháp luật không còn tồn tại hoặc làm cho việc
kết hôn trái pháp luật không còn giá trị nữa. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật
học của Trường Đại học Luật Hà Nội đã có sự giải thích khá đầy đủ: “Hủy việc kết
11 Tổng hợp văn học Nước Ta, Tập 30, tr .
hôn trái pháp luật được hiểu là biện pháp chế tài của Luật HNGĐ đối với trường hợp
nam nữ kết hôn không tuân thủ đầy đủ các điều kiện được Luật HNGĐ quy định” 12_._
Từ định nghĩa cho thấy, việc hủy kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ của Nhà
nước đối với quan hệ kết hôn trái pháp luật. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của
dân, do dân và vì dân. Tất cả các chính sách pháp luật của Nhà nước đều được xây
dựng và thực hiện vì lợi ích của nhân dân. Bên cạnh đó, pháp luật còn bảo đảm trật tự
cũng như lợi ích chung của xã hội. Để đạt được mục đích đó thì mỗi công dân phải có
ý thức trong việc tuân thủ pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý nghiêm
minh. “Hủy” trong hủy kết hôn trái pháp luật chính là sự không đồng tình của Nhà
nước đối với hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn trong Luật HNGĐ. Theo quy định,
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền hủy kết hôn trái pháp luật. Khi Tòa án ra quyết định
hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Giấy chứng nhận kết hôn mà hai bên được cấp trước
đó không có giá trị pháp lý. Do đó, hai bên nam nữ không phải là vợ chồng của nhau,
họ buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái pháp luật. Tòa án sẽ phải
gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn cho hai bên nam nữ bản sao quyết
định của Tòa án về hủy việc kết hôn trái pháp luật để cơ quan này ghi vào Sổ hộ tịch.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là biện pháp chế tài có ý nghĩa quan trọng với
mục đích xử lý người có hành vi vi phạm tính nghiêm minh của pháp luật, tính pháp
chế của xã hội, góp phần vào việc xây dựng chế độ hôn nhân gia đình tự nguyện, tiến
bộ, xây dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Xem thêm: Hôn Nhân Đã Qua – Chương 1
12 Trường Đại học Luật Thành Phố Hà Nội ( 1999 ), Từ điển lý giải thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, TP. Hà Nội .
Tuy nhiên, hiện nay vẫn có rất nhiều trường hợp “bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối
kết hôn” dẫn đến viêc xác lậ p quan hệ hôn nhân là bất hợp pháp, hoàn toàn không dựạ
trên ý chí của các chủ thể trực tiếp tham gia tạo lâp quan hệ hôn nhân, từ đó gây những̣
hê lụy không đáng có. Chính vì vậ y, để đảm bảo quyền lợi của các chủ thể, những̣
người kết hôn nhưng “không tự nguyên” có thể tự mình yêu cầu hoặ c đề nghị các cạ́
nhân là vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha,
mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái
pháp luật; tổ chức là Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước
về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án hủy viêc kết hôn trái pháp luậ t.̣
Sở dĩ, pháp luât quy định cho những cá nhân này có quyền tự mình yêu cầu là vị̀
có trường hợp, tại thời điểm kết hôn, họ không thể hiên sự tự nguyệ n kết hôn, họ bị lừạ
dối, bị cưỡng ép đến dẫn đến cuôc hôn nhân không như ý muốn nhưng sau khi kết hôṇ
và sống chung môt khoảng thời gian, họ đã thông cảm, thấu hiểu với nhau và muốṇ
cùng nhau xây dựng gia đình thì trên thực tế sự tự nguyên đã đạt được và cuộ c hôṇ
nhân vẫn được xem là hợp pháp.
Do đó, viêc quy định như trên là hợp tình và hợp lý, thể hiệ n được ý chí và quyềṇ
tự định đoạt của các chủ thể tham gia vào viêc kết hôn.̣
2.1. Vợ, chồng, cha, mẹ, con, người giám hộ, người đại diện theo pháp luật
của các bên kết hôn
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 Luât HNGĐ 2014 thì ̣ “Vợ, chồng của
người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ
hoăc người đại diện theo pháp luật của người kết hôn trái pháp luậ t”̣ có quyền yêu
cầu Tòa án hủy viêc kết hôn trái pháp luậ t do việ c kết hôn vi phạm quy định tại điểm a,̣
c và d khoản 1 Điều 8 Luât này, bao gồm các vi phạm về độ tuổi, về nhận thức và các̣
trường hợp cấm kết hôn.
Việc quy định cha, mẹ, con có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là
hoàn toàn hợp lý, nhằm bảo vệ những người có quan hệ huyết thống, liên quan mật
thiết với chủ thể kết hôn trái pháp luật, do trong trường hợp này, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ có thể bị ảnh hưởng từ việc kết hôn trái pháp luật. Bên cạnh đó, việc quy
định về người giám hộ, người đại diện theo pháp luật góp phần mở rộng phạm vi
người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho
những chủ thể trực tiếp tham gia quan hệ kết hôn và những người liên quan khác.
Cần lưu ý rằng, những chủ thể này chỉ được quyền yêu cầu Tòa án hủy kết hôn
trái pháp luât trong 3 trường hợp nêu trên mà không có quyền yêu cầu đối với trự ờng
hợp vi phạm sự tự nguyên. Vì như đã nêu ở mục 2.1 thì sự tự nguyệ n do các chủ thệ̉
trong quan hê hôn nhân quyết định và nếu họ không có đề nghị yêu cầu thì các cá nhâṇ
này không được tự ý yêu cầu Tòa án. Viêc họ có tự nguyệ n hay không, có muốn tiếp̣
tục chung sống với nhau và xây dựng gia đình hay không là do ý chí chủ quan của hai
vợ chồng và những người thân không có quyền tự ý định đoạt về sự tự nguyên đó.̣
2.1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ
Không chỉ có cá nhân mới có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luât mà các cợ
quan, tổ chức – Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ
khi phát hiên những vi phạm về độ tuổi, nhậ n thức, điều kiệ n cấm kết hôn thì cũng cọ́
quyền yêu cầu Tòa án hủy viêc kết hôn trái pháp luậ t để bảo vệ pháp luậ t, bảo vệ ̣
quyền và lợi ích của công dân trong viêc kết hôn.̣ Cũng giống như các cá nhân quy
định tại điểm a khoản 2 Điều này thì cơ quan không có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết hủy kết hôn nếu thuôc trường hợp vi phạm sự tự nguyệ n mà chỉ có thể yêu cầụ
khi có đề nghị của cá nhân bị xâm phạm quyền.
2.1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
Theo khoản 3 Điều 10 Luât này thì “̣ Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát
hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các
điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.”
Nhằm đảm bảo được tối đa quyền lợi của các cá nhân trong khi xác lâp quan hệ̣
hôn nhân, pháp luât mở rộ ng thêm đối tượng được quyền đề nghị Cơ quan quản lý nhạ̀
nước về gia đình, về trẻ em, Hôi liên hiệ p phụ nữ yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp̣
luât. Các đối tượng đó có thể là bất cứ ai, cơ quan, tổ chức nào khi phạ́ t hiên ra hành vị
kết hôn trái với quy định của luât, trái với đạo đức xã hộ i thì có quyền đề nghị. Sau khị
nhân được đề nghị của các chủ thể trên, Cơ quan quản lý nhà nước về gị a đình, về trẻ
em, Hôi liên hiệ p phụ nữ xem xét và nếu nhậ n thấy đây đúng là mộ t cuộ c hôn nhâṇ
trái pháp luât thì họ sẽ thực hiệ n các thủ tục để yêu cầu Tòa án hủy kết hôn.̣
2. CĂN CỨ HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT VÀ ĐƯỜNG LỐI GIẢI
QUYẾT ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG HỢP KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
2.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn
Pháp luật nước ta chỉ quy định độ tuổi tối thiểu nam, nữ được phép kết hôn tại
điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi
trở lên”. Tùy theo hoàn cảnh công tác, điều kiện sinh hoạt và sở thích của mỗi người
thì hai bên nam nữ có quyền đăng ký kết hôn miễn là đủ độ tuổi luật định. Quy định
này được ban hành dựa trên các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học, y học lẫn truyền
thống đạo đức trong việc xác định độ tuổi nam, nữ phát triển hoàn thiện về mặt tâm
sinh lý. Họ có khả năng sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh về thể chất, trí tuệ cũng như
đủ chín chắn để gánh vác gia đình, thực hiện nghĩa vụ phát sinh trong mối quan hệ hôn
nhân gia đình nhằm đảm bảo cho quan hệ hôn nhân có thể tồn tại bền vững.
sống với nhau của hai người. Nam, nữ tự quyết đối với việc kết hôn một cách chủ quan
theo như ý muốn của họ mà không chịu bất cứ sự ép buộc, tác động bởi bất kỳ ai, bất
kỳ yếu tố nào. Và sự tự nguyện đó phải được biểu hiện ra bên ngoài thông qua việc
nam, nữ cùng trực tiếp ký chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Ngoài ra, Luật HNGĐ không quy định cơ chế đại diện trong kết
hôn đồng thời cấm hành vi cưỡng ép, lừa dối, cản trở việc kết hôn làm cho việc kết
hôn không đảm bảo sự tự nguyện.
Quyền kết hôn là quyền gắn liền với nhân thân của mỗi người, do đó việc kết hôn
phải do người kết hôn tự nguyện quyết định. Yếu tố tự nguyện là yếu tố quan trọng
khởi nguồn cho cuộc hôn nhân hợp pháp, là cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của
hai bên và đặc biệt là đảm bảo quyền bình đẳng, quyền tự do lựa chọn trong hôn nhân.
2.2. Kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 luật HNGĐ 2014 thì người kết hôn phải
là người “không bị mất năng lực hành vi dân sự” và điều kiện để bị coi là một người
mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS 201517. Quy
định này nhằm đảm bảo tính logic với quy định về sự tự nguyện kết hôn, bởi một
người bị mất năng lực hành vi dân sự thì không thể nào tự nguyện bày tỏ ý chí trong
việc kết hôn được.
Trong thực tiễn vẫn có những trường hợp người mắc bệnh tâm thần hoặc các
bệnh khác không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng không có yêu
cầu Tòa án tuyên người đó là người mất năng lực hành vi dân sự. Vì thế, họ vẫn đủ
điều kiện kết hôn, trong khi đó việc kết hôn này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của
người kết hôn cũng như gia đình và xã hội. Vì vậy, cần phải có các biện pháp tuyên
truyền, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cũng như ý thức tôn trọng quyền tự do kết
hôn của cá nhân để mọi người tự giác thực hiện, tránh tình trạng quy định điều kiện chỉ
mang tính chất hình thức.
2.2. Kết hôn trái pháp luật do vi phạm các trường hợp cấm kết hôn
Các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2
Điều 5 Luật HNGĐ 2014. Cụ thể:
Kết hôn giả tạo
Khái niệm “kết hôn giả tạo” được định nghĩa tại khoản 11 Điều 3 Luật HNGĐ
201418. Theo đó, việc kết hôn giả tạo không vì mục đích xây dựng gia đình mà nhằm
17 Khoản 1 Điều 22 BLDS 2015.
“Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định
tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó
hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.”.
18 Khoản 1 Điều 13 Luật HNGĐ 2014.
muốn đạt được những quyền lợi riêng trải qua quan hệ hôn nhân gia đình. Pháp luật HNGĐ Nước Ta cấm việc kết hôn giả tạo nhằm mục đích vô hiệu những trường hợp đáng tiếc không nên có, như một người phụ nữ hoàn toàn có thể kết hôn với một người quốc tế hoặc người Nước Ta định cư tại quốc tế để nhập quốc tịch quốc tế nhằm mục đích hưởng 1 số ít tặng thêm của Nhà nước. Điều này tác động ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách hôn nhân, làm ngày càng tăng số lượng người nhập cư “ trái phép ” một cách hợp pháp, gây hao hụt ngân sách hay quyền lợi và nghĩa vụ từ những chính sách khuyến mại của Nhà nước, nghiễm nhiên trở thành công dân của một nước mà không trải qua bất kể một bài kiểm tra cũng như chưa đủ tiêu chuẩn để phân phối cho một xã hội trọn vẹn mới. Bên cạnh đó, kết hôn giả tạo hoàn toàn có thể làm ngày càng tăng thực trạng ly hôn sau khi người kết hôn đạt được mục tiêu của mình. Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn Hiện nay, mặc dầu nhận thức người dân đã tăng cao, đa phần nam nữ kết hôn ở tuổi luật định, nhưng vẫn còn những trường hợp nam, nữ lấy vợ, lấy chồng rất sớm, hay còn gọi là nạn tảo hôn. Nhà nước CHXHCN Nước Ta cấm việc tảo hôn bởi lẽ nó sẽ đánh mất đi tương lai của những đứa trẻ – nạn nhân của thực trạng này, làm mất đi thời cơ học tập, có việc làm tốt, thời cơ để cải tổ điều kiện kèm theo sống và chăm nom sức khỏe thể chất của mẹ và trẻ. Không chỉ trực tiếp tác động ảnh hưởng đến bản thân và gia đình mà việc tảo hôn còn ảnh hưởng tác động lớn đến xã hội khi chất lượng dân số bị ảnh hưởng tác động mạnh bởi thực trạng này. Các cặp cha mẹ trẻ chưa tăng trưởng vừa đủ tâm sinh lý khiến cho tỷ suất những đứa trẻ mang khiếm khuyết về mặt khung hình tăng cao hơn thông thường, tạo thêm gánh nặng cho vợ chồng, cho xã hội. Vì thế Nhà nước ta xem đây là một vấn nạn cần phải diệt trừ. Kết hôn là một quyền thiêng liêng chứ không phải là nghĩa vụ và trách nhiệm. Do đó, Nhà nước luôn tôn vinh tính tự nguyện và đặt sự tự nguyện là điều kiện kèm theo bắt buộc trong hôn nhân. Theo lao lý tại khoản 9 Điều 3 19, hoàn toàn có thể thấy, việc cưỡng ép kết hôn là do một trong hai bên ép buộc bên kia kết hôn với mình hoặc một trong hai bên bị người khác ép buộc kết hôn trải qua việc ảnh hưởng tác động lên niềm tin là đa phần. Hiện nay, mặc dầu thực trạng này không còn tiếp tục diễn ra nhưng vẫn hoàn toàn có thể thuận tiện phát hiện trải qua việc “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy ” của những cặp cha mẹ vì thực trạng gia đình hay vì “ môn đăng hộ đối ” mà ép buộc hoặc ngăn cản con mình kết hôn. Tất cả việc này đều trái với ý thức tự nguyện của pháp lý HNGĐ Việt Nam lúc bấy giờ. Lừa dối để kết hôn là một trong hai người đã nói sai thực sự về người đó làm cho người kia lầm tưởng mà kết hôn hoặc một trong hai người kết hôn đã hứa hẹn sẽ làm
“Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch
nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây
dựng gia đình”.
19 Khoản 9 Điều 3 Luật HNGĐ.
“Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để
buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ”
vi phạm với nhiều nguyên do khác nhau và để xử lý thì cần xem xét một cách đơn cử nhằm mục đích bảo toàn quyền và quyền lợi của những bên. Kết hôn với những người có cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong khoanh vùng phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc kết hôn với nhau Theo pháp luật tại điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ 2014 thì cấm hành vi “ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ ; giữa những người có họ trong khoanh vùng phạm vi ba đời ; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi ; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng ”. Chưa bàn đến chuyện trái với thuần phong mỹ tục của người Nước Ta, việc kết hôn giữa những người trong trực hệ sẽ làm ngày càng tăng tỷ suất khiếm khuyết ở những đứa trẻ được sinh ra là hiệu quả của mối quan hệ này. Do đó, pháp lý hôn nhân cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong khoanh vùng phạm vi ba đời với nhau để bảo vệ cho con cháu sinh ra được khỏe mạnh, nòi giống tăng trưởng lành mạnh, bảo vệ quyền lợi gia đình và quyền lợi xã hội. Xét về quy chuẩn đạo đức thì việc kết hôn trong trực hệ, giữa những người cùng họ trong khoanh vùng phạm vi ba đời là một việc đi ngược với tập quán tốt đẹp của dân tộc bản địa. Không chỉ cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống, Luật HNGĐ còn cấm kết hôn giữa những người có quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Cơ bản những người này không có quan hệ máu mủ với nhau nhưng để bảo vệ quan hệ trong gia đình, tôn trọng thứ bậc xấp xỉ, cũng như để tương thích với đạo đức xã hội nên lao lý Nước Ta pháp luật cấm những hành vi này. Bên cạnh đó, điều kiện kèm theo cấm này còn giúp ngăn ngừa những hành vi tận dụng những mối quan hệ phụ thuộc vào mà ép buộc hay cưỡng ép kết hôn .
2. XỬ LÝ YÊU CẦU HỦY VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
2.3. Nguyên tắc xử lý chung
Về nguyên tắc, các trường hợp kết hôn khi không đủ điều kiện được quy định tại
Điều 8 Luật HNGĐ 2014 đều là trái với pháp luật và sẽ bị Tòa án tuyên hủy nếu như
có yêu cầu và có đầy đủ các căn cứ việc kết hôn đó không đủ điều kiện. Tuy nhiên, để
đảm bảo cho quyền và lợi ích của các bên liên quan thì Tòa án phải có trách nhiệm
đánh giá đúng hoàn cảnh, tình hình thực tế, xem xét về mối quan hệ tình cảm giữa các
bên từ đó đưa ra cơ, phương án xử lý đúng đắn nhằm bảo đảm sự thấu tình đạt lý, đạt
hiệu quả cao trong việc áp dụng pháp luật chứ không chỉ xử lý một cách tuyến tính.
2.3 Xử lý cụ thể trong các trường hợp kết hôn trái pháp luật
Như đã trình bày ở phần trên thì về nguyên tắc chung việc kết hôn trái pháp luật
phải bị Tòa án tuyên hủy. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể thì Tòa án phải xem
xét, tùy vào hoàn cảnh sự vi phạm hay thực trạng quan hệ giữa hai bên trong thời gian
chung sống mà tòa án có thể quyết định hủy hay không hủy việc kết hôn đó.
Theo quy định tại Điều 11 Luật HNGĐ 2014 và Điều 4 TTLT số 01/2016 quy
định về xử lý yêu cầu kết hôn trái pháp luật thì khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên
quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự
và điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân quy định tại Điều 8 và
Điều 11 của Luật HNGĐ để quyết định.
Theo đó, lúc kết hôn cả hai bên chưa đủ điều kiện kết hôn nhưng tại thời điểm
Tòa án giải quyết mà cả hai bên đã đủ điều kiện kết hôn tại Điều 8 của Luật HNGĐ thì
giải quyết như sau:
Nếu cả 2 bên có yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận
quan hệ hôn nhân đó. “Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời
điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này” (khoản 2 Điều 11 Luật
HNGĐ 2014);
Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc có một bên
yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia
không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp có
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con;
quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến thời điểm
hủy việc kết hôn trái pháp luật được giải quyết theo quy định tại Điều 12 của Luật
HNGĐ.
Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết hai
bên kết hôn vẫn không đủ các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HNGĐ
thì thực hiện như sau:
Nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án quyết định hủy việc
kết hôn trái pháp luật;
Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hôn
nhân thì Tòa án bác yêu cầu của họ và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Khi xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào quy
định của pháp luật HNGĐ có hiệu lực tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác
định việc kết hôn có trái pháp luật hay không. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu xử
lý việc kết hôn trái pháp luật được thực hiện theo quy định của Luật HNGĐ và pháp
luật tố tụng dân sự có hiệu lực tại thời điểm giải quyết. Đối với yêu cầu hủy việc kết
hôn trái pháp luật thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc từ
Source: https://thoitrangredep.vn
Category: Cưới Hỏi