Trùng roi xanh – Wikipedia tiếng Việt

Chi Trùng roi xanh (Euglena) là một chi sinh vật nguyên sinh đơn bào. Nó là chi được biết đến và được hiểu rõ nhất trong lớp Euglenoidea, một nhóm đa dạng gồm 54 chi và ít nhất 800 loài.[3][4] Các loài Euglena sống trong nước ngọt, ao, hồ, đầm ruộng, kể cả vũng nước mưa. Chúng phổ biến trong vùng nước ngọt, chúng có thể sinh sôi đến số lượng đủ để làm đổi màu vùng nước thành màu xanh lá cây

Trùng roi sống trong nước : ao, hồ, đầm, ruộng, vũng nước mưa. Lớp Trùng roi ( Flagellata ) gồm có trùng roi xanh, tập đoàn lớn trùng roi cùng khoảng chừng hơn 8 nghìn loài động vật hoang dã nguyên sinh nguyên thủy khác sống trong nước ngọt, nước biển, đất ẩm, …, 1 số ít sống ký sinh, có các đặc thù chung sau : vận động và di chuyển nhờ quẫy roi ( một hay nhiều roi ở đuôi ), vừa tự dưỡng vừa dị dưỡng ( ở các trùng roi thực vật ) hoặc chỉ dị dưỡng ( ở các trùng roi động vật hoang dã ), hô hấp qua màng khung hình, đường lấy thức ăn không thay đổi nhưng đường tiêu hóa thức ăn không không thay đổi, bài tiết và kiểm soát và điều chỉnh áp suất thẩm thấu nhờ không bào co bóp, sinh sản vô tính theo cách phân đôi. Lớp Trùng roi có vai trò rất quan trọng trong vạn vật thiên nhiên và so với con người. Về mặt có lợi, chúng là thông tư về độ sạch của thiên nhiên và môi trường nước, là thức ăn của một số ít động vật hoang dã thủy sinh … Một số trùng roi ký sinh gây hại không nhỏ cho con người ( truyền các bệnh nguy khốn như trùng roi âm đạo, bệnh ngủ châu Phi ở người, … ) .
Trùng roi xanh ( Euglena viridis ) sống ở nước, chúng tạo nên các mảng váng xanh trên mặt phẳng ao, hồ. Trùng roi xanh là một khung hình động vật hoang dã đơn bào cỡ nhỏ ( ≈ 0,05 mm ). Cơ thể hình thoi, đuôi nhọn, đầu tù và có một roi dài xoáy vào nước giúp khung hình vừa tiến vừa xoay. Cấu tạo gồm nhân và chất nguyên sinh chứa các hạt diệp lục như thực vật, ác hạt dự trữ, điểm mắt và không bào co bóp. Ở nơi có ánh sáng, nhờ các hạt diệp lục mà trùng roi dinh dưỡng kiểu tự dưỡng như thực vật, còn ở chỗ tối trùng roi vẫn sống nhờ đồng điệu các chất dinh dưỡng có trong nước ( dị dưỡng ). Hô hấp nhờ sự trao đổi khí qua màng tế bào, bài tiết và kiểm soát và điều chỉnh áp suất thẩm thấu nhờ không bào co bóp. Sinh sản vô tính theo cách phân đôi theo chiều dọc khung hình : nhân phía sau khung hình phân đôi trước, chất nguyên sinh và các bào quan lần lượt phân loại, sau cuối thành viên phân đôi theo chiều dọc khung hình tạo thành 2 trùng roi mới. Trùng roi có tính hướng sáng, cảm nhận ánh sáng nhờ điểm mắt và bơi về chỗ sáng nhờ roi bơi .

Tập đoàn trùng roi[sửa|sửa mã nguồn]

Trên mảng xanh ở ao, hồ hoặc ở vài giếng ta thường gặp các hạt hình cầu có đối xứng mặt trời, đường kính khoảng 1mm bơi lơ lửng, xoay tròn. Đó là các tập đoàn trùng roi (hay còn gọi là tập đoàn Vôn-vốc (Volvox)). Mỗi tập đoàn có hàng nghìn cá thể trùng roi hình quả lê có 2 roi xếp thành một lớp bề mặt, roi hướng ra ngoài giúp tập đoàn di chuyển. Tập đoàn trùng roi sinh sản vừa vô tính vừa hữu tính:

  • Sinh sản vô tính ở tập đoàn trùng roi chỉ có một số cá thể chìm vào trong rồi phân chia để cho ra tập đoàn mới nằm trong tập đoàn mẹ. Tập đoàn con muốn thoát ra ngoài phải đợi tập đoàn mẹ chết đi.
  • Sinh sản hữu tính thì một số cá thể rụng roi chuyển trực tiếp thành giao tử cái. Một số cá thể khác biến thành tế bào đực, mỗi tế bào đực phân chia để cho hàng trăm giao tử đực có roi bơi. Giao tử đực sau khi được tung vào nước tìm đến giao tử cái thành hợp tử. Hợp tử phân cắt cho ra tập đoàn mới bên ngoài tập đoàn mẹ.

Tập đoàn trùng roi dù có nhiều tế bào nhưng chỉ được coi là một nhóm động vật đơn bào vì mỗi tế bào vẫn vận động và dinh dưỡng độc lập. Tập đoàn trùng roi được coi là hình ảnh của mối quan hệ về nguồn gốc giữa động vật đơn bào và động vật đa bào.

Ở nơi có ánh sáng trùng roi dinh dưỡng như thực vật (tự dưỡng). Nếu cho chúng vào chỗ tối lâu ngày chúng sẽ mất dần màu xanh. Chúng vẫn sống được nhờ đồng hóa những chất hữu cơ có sẵn hòa tan do các sinh vật khác chết phân hủy ra (hoại sinh). Hô hấp của trùng roi nhờ sự trao đổi khí qua màng tế bào. Không bào co bóp tập trung nước thừa cùng sản phẩm tiết rồi thải ra ngoài, góp phần điều chỉnh áp suất thẩm thấu của cơ thể.

Khi sinh sản, nhân phía sau khung hình phân đôi trước, sau đó chất nguyên sinh và các bào quan lần lượt phân loại. Cuối cùng, thành viên phân đôi theo chiều dọc khung hình tạo thành 2 trùng roi mới. Gọi tắt là sinh sản vô tính theo cách phân đôi theo chiều dọc khung hình. [ 5 ]

Loài Euglena gracilis được sử dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm như sinh vật mô hình.[6]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]