Số trẻ Việt thấp còi ít hơn nhiều nước Đông Nam Á

Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi, theo Tổng tìm hiểu dinh dưỡng năm 2019 – 2020, là 19,6 %, thấp hơn Lào, Indoniesia, Philipines, Malaysia .Năm 2010, tỷ lệ trẻ Việt thấp còi đến 29,3 %. Năm 1990 tỷ lệ này là 56,5 %. Như vậy, số trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đã giảm mạnh trong vòng 20 năm qua .Tỷ lệ thấp còi trẻ Việt Nam hiện dưới 20 %, được xếp vào mức trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ). So những nước trong khu vực, tỷ lệ này của Việt Nam thấp hơn nhiều, ví dụ Lào khoảng chừng 33 %, Indonesia 31 %, Philippines 30 %, Malaysia là 21 % .

Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi năm 2020 là 11,5%. Năm 1990, tỷ lệ này là 41%. Khi ấy, Liên Hợp Quốc đặt mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) đối với tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi đến năm 2015 là 20%. Tuy nhiên năm 2008, tỷ lệ này đã giảm còn 19,9%. Với kết quả này, giới chuyên môn đánh giá Việt Nam về đích trước 7 năm so với mục tiêu MDGs của Liên Hợp Quốc.

MDGs do Liên Hợp quốc đề ra gồm có 8 tiềm năng, những nước thành viên nỗ lực đạt được vào năm năm ngoái. Mỗi MDGs có những chỉ số để theo dõi quy trình tiến độ tăng trưởng so với năm 1990, tương quan trực tiếp đến sức khỏe thể chất .Tuy nhiên, theo tác dụng Tổng tìm hiểu dinh dưỡng 2019 – 2020, vẫn còn sự chênh lệch giữa những vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi. Đặc biệt, ở những vùng nông thôn và miền núi, trẻ nhỏ suy dinh dưỡng thấp còi vẫn ở mức cao .

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên nhận định suy dinh dưỡng các thể vẫn còn tồn tại dai dẳng, đặc biệt là ở những vùng khó khăn, có dân tộc thiểu số sinh sống. Suy dinh dưỡng bao gồm thiếu dinh dưỡng ở bà mẹ và trẻ em liên quan đến an ninh thực phẩm, hộ gia đình, thiếu các vi chất dinh dưỡng như sắt, kẽm, vitamin A, i-ot.

Theo số liệu, thực trạng thiếu kẽm vẫn còn cao, nhất là ở đối tượng người dùng nhóm có rủi ro tiềm ẩn cao như trẻ nhỏ, bà mẹ. Ở trẻ nhỏ, tỷ lệ là 58 %, ở phụ nữ có thai là 63,5 %. Tỷ lệ này vẫn còn rất cao so với trẻ nhỏ ở miền núi phía Bắc ( gần 68 % ) và Tây Nguyên ( gần 67 % ) và còn cao hơn ở đối tượng người tiêu dùng phụ nữ có thai ở miền núi phía Bắc ( gần 82 % ) và Tây Nguyên ( gần 64 % ). Đặc biệt ở khu vực thành phố 5 năm qua ( năm ngoái – 2020 ) tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ nhỏ 6 đến 59 tháng tuổi ở mức cao ( gần 50 % % ) so với tiêu chuẩn và hầu hết không cải tổ .Tỷ lệ thiếu vitamin A ở nhóm trẻ 6 đến 59 tháng tuổi trên cả nước giảm xuống 9,5 %. Tỷ lệ này cao nhất ở khu vực miền núi phía bắc ( gần 14 % ) và Tây Nguyên ( 11 % ). Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ nhỏ 5 đến 9 tuổi là 4,9 %, ở mức nhẹ về ý nghĩa sức khỏe thể chất hội đồng theo nhìn nhận của WHO .

Chương trình can thiệp uống viên nang vitamin A liều cao nhiều thập kỷ qua nhưng tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 6 đến 59 tháng tuổi vẫn còn ở mức nhẹ, giảm chậm trong những năm gần đây.

Ông Tuyên cho biết kế hoạch dinh dưỡng cho tiến trình mới lần này sẽ tăng cường góp vốn đầu tư cho những can thiệp dinh dưỡng thiết yếu trong 1.000 ngày vàng, gồm có dinh dưỡng trước, trong khi mang thai, dinh dưỡng bà mẹ cho con bú, nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ trợ hài hòa và hợp lý.

Thúy Quỳnh