PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI TRUNG HOA XƯA

I .Vai trò,ý nghĩa của lễ cưới đối với văn hóa Trung Hoa

Lễ cưới thường là sự ghi nhận quy trình trưởng thành của đôi người trẻ tuổi nam nữ, sau quy trình khám phá. Nó khẳng định chắc chắn xã hội đã thừa nhận một tình yêu. Hôn nhân là sự thống nhất giữa tình yêu và nghĩa vụ và trách nhiệm giữa hai người. Người Hoa quan niệm hôn nhân gia đình là một việc hệ trọng, có tính quyết định hành động cả cuộc sống con người nên những nghi thức của lễ cưới được thực thi một cách khắt khe theo truyền thống lịch sử để lại. Do chịu ảnh hưởng tác động truyền kiếp của phong kiến Nước Trung Hoa và Khổng giáo nên hôn lễ của người Hoa còn được ràng buộc bởi nhiều nghi thức. Người Hoa rất trọng lễ nghĩa và trong mỗi cuộc hôn nhân gia đình truyền thống lịch sử nhất thiết phải “ môn đăng hộ đối ” và triển khai đủ “ tam thư, lục lễ ” .
Phong tục cưới hỏi của người Hoa có những nét độc lạ, riêng birtj, mê hoặc góp thêm phần làm phong phú thêm nền văn hóa Trung Hoa. Về tập tục cưới xin, từ xưa đến nay luôn có sự đổi khác nhưng luôn tạo được bầu không khí trang trọng, náo nhiệt, vui tươi, suôn sẻ .

II.Quy trình tổ chức một lễ cưới của người Trung Hoa thời xưa

Trong thời cổ, lễ cưới phải trải qua 6 trình tự lễ nghi, gọi là 6 lễ sau đây :
Lễ nạp thái : sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “ nhạn ” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy .
Lễ vấn danh : là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái .
Lễ nạp cát : lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi .
Lễ nạp tệ ( hay nạp trưng ) : là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc như đinh .
Lễ thỉnh kỳ : là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cuối là
Lễ thân nghinh ( tức lễ rước dâu hay lễ cưới ) : đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về .
Nhưng nói chung thì lễ cưới của người Trung Hoa xưa gồm 3 lễ chính sau : lễ dạm ngõ, lễ đám cưới và lễ rước dâu .
Trước kia, khi chàng trai đem lòng thường yêu một cô gái, thì mời bà mối đến nhà gái dạm ngõ, lúc đó nhà trai không những phải cho bà mối quà, mà còn phải đưa lễ vật cho bà mối mang đến nhà gái, lúc này, bà mối mang tấm thiếp có viết tên tuổi của hai người để trao lai cho hai bên. Nếu như hai bên có ý, thì mở màn dạm ngõ, đến lúc này người mẹ của chàng trai chọn ngày lành tháng tốt đến nhà gái để tìm hiểu và khám phá thêm về tì ̀ nh hình của nhà gái, ví dụ điển hình như tình hình kinh tế tài chính của nhà gái, đức tính, dáng vóc v, v của cô gái, cũng có cha mẹ cô gái đến nhà trai để xem mặt của chàng rể tương lai, nhưng torng thời cổ, người con gái làn không được đi xem mặt người chồng tường lai. Ngày này thì ngược lại, phần đông những cô gái đều cùng cha mẹ đến nhà trai để khám phá tình hình, có 1 số ít vùng nông thôn ở Bắc Kinh, nếu như cô gái và cha mẹ đã lại nhà trai ăn cơm thì có nghĩa là đồng ý chấp thuận .
Đính hôn ( lễ đám cưới ) là một nghi lễ chính trong tập tục hôn lễ, tuy chỉ là sự đính ước dân gian, nhưng lại thường có công dụng pháp luật. Đính hôn thường là nhà trai đem lễ đám cưới cho cô gái và nhà gái. Nhà trai mang đến những mâm lễ vật : rượu trà, hai đôi đèn cầy đỏ ( có hình Long Phụng ), đầu heo, đùi heo cùng bánh trái .. và cùng một số ít nữ trang và tiền cho cô dâu tương lai. Nhưng một điều quan trọng cần quan tâm là tổng thể những mâm lễ vật đều là số chẵn mới tốt, số lượng mâm càng nhiều càng cho thấy sự khá giả của nhà trai. Thường là 8, 10, 12 mâm. Phần lễ vật được nhà trai sắp xếp chu đáo, cẩn trọng, toàn bộ dều được phủ tấm vải có thêu chữ “ song Hỷ ” ở trên. Ở Ôn Châu miền Nam Trung Quốc người ta coi đôi nhẫn là một vòng tròn, trong văn tự tượng hình thời cổ có nghĩa là vĩnh hằng, tỏ ý hôn nhân gia đình không khi nào đổi khác. Trong ý niệm truyền thống cuội nguồn thì sau khi đính hôn là không được biến hóa, cũng không được tính chuyện trăm năm với người khác, coi đính hôn là một loại pháp lý. Hai bên sau khi trải qua một lọat trình tự thì đi vào hôn lễ, đây cũng là một hoạt động giải trí phiền hà nhất, phức tạp nhất, vui mừng nhất trong hôn lễ từ xưa đến nay. .
Hôm đi đón dâu, cô dâu thường là mặc áo đỏ để tỏ ra sự vui mừng, suôn sẻ. Khi cô dâu bước ra cửa, vừa đi vừa khóc, tỏ ý lưu luyến không rời. Lúc cô dâu bước ra cổng cũng không được quay đầu lại nhìn, mà phải đi thẳng. Còn ba mẹ cô dâu sẽ đứng ở cổng nhà nhìn theo và sẽ không đi theo qua nhà chồng. Cô dâu đến nhà chồng, thì khởi đầu nghi thức hôn lễ. Ở một số ít nơi, cô dâu phải bước qua chậu lửa trong sân, để đốt hết những điều xúi quẩy, để đời sống sau này được đầm ấm, niềm hạnh phúc. Sau khi cô dâu bước vào nhà chồng, phải làm hết nghi thức này đến nghi thức khác., Thứ nhất là Nhất bái thiênđịa ( lạy tạ trời đất ), thứ hai làNhị báicao đường ( lậy tạ cha mẹ ), thứ ba là Phu thê giao bái ( vợ chồng lạy tạ nhau ). Sau đó uống chén rượu trao nhau. Trong căn nhà mới, cô dâu và chú rể còn cắt tóc của nhau, rồi để lẫn với nhau cất đi để làm vật tín trong quan hệ vợ chồng .
Tiệc cưới đã đưa bầu không khí hôn lễ lên đến đỉnh điểm, và còn gọi là “ tiệc hỷ ”. Vì vậy mọi người gọi đi ăn tiệc cưới là đi “ uống rượu hỷ ”. Khi ăn tiệc, cô dâu phải địch thân rót rượu gắp thức ăn cho khánh, cảm ơn khách đã đến dự lễ cưới của mình. Phòng của cô dâu chú rể còn gọi là “ phòng hỷ ” “ động phòng ” náo động phòng là họat động ở đầu cuối của hôn lễ, những người tham gia thường là những thanh niêm nam nữ chưa xây dựng mái ấm gia đình. Mọi người nghĩ đủ mọi cách để cho vui, hoặc trêu đùa cô dâu chú rể, hoặc buộc cô dâu, chủ rể màn biểu diễn tiết mục v, v, với mục tiêu là để tăng thêm bầ không khí vui nhộn của hôn lễ, khiến cô dâu, chú rể một đời không hề quên được. Trước khi động phòng, cô dâu và chú rể cùng uống rượu giao bôi và sau đó hai người cùng ăn chung 1 chén chè, ý niệm là được như ý muốn. Chè có màu đỏ, vị ngọt, mặn cay hàm ý cùng chia ngọt sẻ ngọt bùi, son sắt thuỷ chung .

III.Những điều lưu ý trong đám cưới của người Trung Hoa xưa

Hôn nhân là một việc trọng đại trong đời người. Hôn nhân xấu hay tốt sẽ tương quan trực tiếp đến niềm hạnh phúc cả đời người. Để có được niềm vui tương lai, người Nước Trung Hoa vô cùng xem trọng những điều kiêng kỵ trong tập tục hôn nhân gia đình .

1.Thời gian kết hôn

Thời gian kết hôn nên tránh 3 tháng sau : Tháng 6, tháng 3 và tháng 7. Theo phong tục truyền thống cuội nguồn, tháng 6 âm tức là giữa năm ; người vợ theo ý niệm này cũng chỉ có nửa cuộc sống, hôn nhân gia đình sau này dễ bị chia cắt. Nếu trong nhà đùng một cái có người qua đời, trong năm đó không thích hợp để tổ chức triển khai hỷ hoặc đi đăng ký kết hôn. Ngoài ra tháng 3 và tháng 7 âm lịch đều là những ngày ma quỷ nhiều ám ảnh. Đối với bậc bề trên, những tháng này nên tránh tổ chức triển khai tiệc hỷ .
Ba ngày sau khi kết hôn, chú rể phải đưa cô dâu về nhà mẹ đẻ. Đây là tập tục “ lại mặt ”, ngày hôm đó mặc dầu đã muộn cũng phải mau chóng về nhà chồng. Nếu bắt buộc phải ngủ ở nhà mẹ đẻ thì hai vợ chồng nên ngủ riêng, tránh để nhà mẹ đẻ có nhiều điều không hay. Trong 4 vòng tháng đôi vợ chồng mới cưới cũng nên tránh tham gia đám tang hoặc đám hỷ nào đó .

2.Giường cưới

Giường cưới cần được đặc biệt quan trọng chú ý quan tâm, trước đêm tân hôn chú rể nên tìm một cậu bé đến ngủ cùng mình, tuyệt đối không được để giường trống không .
Giường cưới không nên đặt đối lập với bất kể vật nào sắc nhọn hoặc hoặc tủ quần áo. Trên giường cưới nên đặt một số ít vật cát lợi như bách hợp, táo đỏ, hạt sen …

3.Lễ phục trong hôn lễ

Lễ phục, áo cưới, giày trong ngày cưới đều phải là đồ mới, không chỉ có vậy lễ phục tránh có túi, vì túi có nghĩa là sẽ đem nhiều tài vận của nhà gái đi. Câu đối nên được treo trước hôn lễ, sau khi tổ chức triển khai hôn lễ được một tháng thì hạ xuống. Khi lựa chọn mua câu đối cần phân biệt rõ mục tiêu giữa nam và nữ .

IV Một số điều kiêng kỵ trong lễ cưới hỏi của người Trung Hoa xưa

Người Nước Trung Hoa thời xưa thường có nhiều tập tục khá mê hoặc so với hôn lễ :

  1. Chú rể không nên ngủ một mình trên giường khi sắp cưới

Chăn mới, gối mới và giường mới nên được trải thật sạch trước đêm tân hôn, và tránh để chú rể ngủ một mình trên giường mới, nếu không sẽ tác động ảnh hưởng đến hôn nhân gia đình sau này, đời sống dễ đơn độc. Nếu chú rể không có chỗ khác để nghỉ ngơi hoàn toàn có thể tìm một cậu thanh nhiên ngủ cùng .

  1. Kiêng ăn bánh hỷ

Bánh hỷ tượng trưng cho niềm vui, vì vậy bánh này theo tập tục của người Trung Quốc chỉ nên đem đi phân phát cho mọi người. Trong đại lễ, cô dâu không được ăn bánh hỷ, vì ăn bánh này cũng có nghĩa sẽ tiêu tan mất niềm vui .

  1. Kiêng nói “tạm biệt”

Khi hôn lễ kết thúc, bạn hữu và người thân trong gia đình đều ra về, cô dâu chú rể không nên nói : “ Tạm biệt ”, vì hai từ này có nghĩa là ly biệt, không tốt so với đôi vợ chồng mới cưới. Vì thế khi tiễn khách nên gật đầu tỏ vẻ chấp thuận đồng ý hoặc vẫy tay chào tạm biệt .

  1. Phụ nữ mang thai không nên đưa dâu

Vào đợt nghỉ lễ thành thân, khi cô dâu sẵn sàng chuẩn bị về nhà chồng, phụ nữ mang thai không nên tiễn. Vì thời thời xưa, mọi người đều cho rằng phụ nữ mang thai tượng trưng cho máu, vì vậy sản phụ khi đưa tiễn tức là họa sẽ tới gần .

  1. Sau khi kết hôn 3 ngày không nên ở lại nhà mẹ đẻ

Trong truyền thống lịch sử Trung Quốc, 3 ngày sau khi kết hôn chú rể sẽ đưa cô dâu về nhà mẹ đẻ và gọi là lễ lại mặt. Nhưng cần quan tâm, vợ chồng mới cưới sau khi thăm cha mẹ vợ nên kiêng ở lại qua đêm, vì dễ làm nhà vợ gặp rủi ro xấu. Nếu vì nguyên do nào đó buộc phải ở lại nhà mẹ đẻ, vợ chồng không nên ngủ cùng giường .

  1. Ý nghĩa một số biểu tượng trong đám cưới

1.Qùa chúc phúc trong đám cưới của người Trng Hoa xưa

Từ ngàn năm trước, đám cưới là dịp đại lễ lớn, và những món quà cưới đều mang nhiều ý nghĩa tượng trưng rất quan trọng. Tuy nhiên đám cưới thời nay đã mất đi nhiều giá trị, những món quà cưới cũng theo đó không còn được trân trọng nhiều. Bằng cách khai thác ý nghĩa đa dạng chủng loại của những món quà cưới, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể có được cái nhìn cận cảnh về hôn lễ truyền thống lịch sử, và tầm quan trọng khi mở màn đời sống lứa đôi của người Trung Hoa xưa .

Chiếc lược: Chiếc lược mang ý nghĩa ràng buộc, biểu tượng là tóc được tết lại và thắt một cái nút vào thời xưa. Món quà này gắn với câu chúc: “Bạch đầu giai lão”, có nghĩa là sống với nhau đến bạc đầu. Ngoài ra còn có một buổi lễ chải tóc vào buổi tối trước khi đám cưới.

Cây thước: Đây là biểu tượng cho hạnh phúc đôi lứa. Thể hiện mong ước một thước đo đầy con cái, hôn nhân hạnh phúc và cuộc sống thành đạt.

Giày thêu: Từ “giày” và từ “cùng với” được phát âm giống nhau. Vì vậy tặng giày mang nghĩa là sống cùng nhau, tận hưởng hạnh phúc lứa đôi mỹ mãn.

Gậy Như Ý: Gậy Như Ý là một vương trượng nghi lễ và bùa hộ mệnh tôn giáo. Trong đám cưới, chú rể dỡ khăn che mặt của cô dâu bằng một cây gậy Như Ý. Ý nghĩa tinh thần của món quà này là “ Mọi mong ước sẽ được thực hiện” hay là “như ý”. Ngày nay, mặc dù không còn được dùng trong nghi thức đón dâu, gậy Như Ý vẫn được tặng bởi bố mẹ cô dâu để chúc cho con gái có một cuộc hôn nhân như ý.

Chiếc gương: Gương đại diện cho sự hoàn hảo và đầy đủ, và hàm chứa vẻ đẹp của cô dâu. Nó tượng trưng cho mong muốn rằng cuộc hôn nhân và dung mạo của cô dâu sẽ mãi mãi tươi trẻ và xinh đẹp.

Xô hạt: Đây là vật dụng đo lường các loại ngũ cốc, xô hạt mang nhiều ý nghĩa cho đám cưới. Tặng phẩm này tượng trưng sự giàu có và sung mãn của chú rể, đồng thời cũng chúc cho cô dâu được những ngày thảnh thơi ăn no, mặc ấm.

Cây kéo: Kéo rất quan trọng trong đám cưới truyền thống vì đó là vật dụng cần thiết cho việc may vá, đặc biệt là may xiêm y của người xưa. Thông qua nhu cầu may quần áo mịn mượt, cũng chúc cho cô dâu có một cuộc hôn nhân đầm ấm và mượt mà.

Bàn tính: Người Trung Hoa xưa sử dụng một bàn tính để tính thu nhập và chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày. Trong lễ cưới, một bàn tính bằng vàng 24-karat được trao cho một cặp vợ chồng mới cưới với mong muốn một cuộc sống thịnh vượng có thu nhập đáng kể và tài chính được quản lý tốt.

2 Ý nghĩa chữ SONG HỶ (喜喜)

Chữ “ Hỷ ” được sử dụng vô cùng thoáng rộng trong hôn lễ của người người Trung Quốc .
Từ ngàn năm trước, việc dán chữ “ Hỷ ” trong đám cưới đã trở thành phong tục không hề thiếu để bộc lộ niềm vui, sự chúc phúc với đôi vợ chồng son .. Chữ “ Song Hỷ ” ( 囍 ) được dùng trong hôn lễ thực ra được ghép lại bởi 2 chữ “ Hỷ ” ( 喜 ). ” Song ” : nghĩa là hai cái, một đôi. “ Hỷ ” : có nghĩa là mừng vui. “ Song hỷ ” là hai điều vui mừng đến một lượt. Trong cưới xin “ Song hỷ ” có nghĩa là hai việc vui mừng song song với nhau : nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái. Chữ “ song Hỷ ” cắt dán bằng màu đỏ xuát hiện trong mọi thứ cúa ngững ngày cưới từ thiệp mời, mâm quả, lễ vật, được tro dán nhiều nơi trong nhà cũng như trong phòng tân hôn .

3.Màu đỏ là màu sắc chủ đạo trong ngày cưới

Đối với người Trung Quốc màu đỏ là sự tượng trưng cho sự như mong muốn, niềm vui, niềm hạnh phúc và thịnh vượng nên trong tổ chức triển khai lễ cưới hỏi màu đỏ được sử dụng rất phổ cập, đây được xem là sắc tố chủ yếu. Màu đỏ được dùng để trang trí nhà cửa, phục trang cô dâu, chú rể, trang trí kiệu hoa, trang trí những lễ vật … .

4.Trang phục ngày cưới

Màu đỏ so với người Trung Quốc tượng trưng cho suôn sẻ, cho sức mạnh xua đuổi tà ma. Váy cưới truyền thống lịch sử ở miền Bắc Trung Quốc là chiếc xường xám thêu hình rồng phượng bằng chỉ màu vàng và bạc. Cô dâu ở miền Nam Trung Quốc thường mặc bộ đồ cưới tách áo và váy riêng nhưng cũng thêu những hoạ tiết rồng và phượng. Trước đây, phục trang cưới của cô dâu còn gồm có cả một tấm khăn màu đỏ trùm lên mũ miện trong suốt lễ cưới. Nhiều cặp vợ chồng xưa kia cưới hỏi do cha mẹ sắp xếp, chỉ biết mặt nhau lần đầu trong đêm tân hôn khi lật tấm khăn che mặt đó lên. Theo truyền thống lịch sử, phục trang cưới của cô dâu sẽ thêu cả hình rồng và phượng tượng trưng cho sự hài hoà giữa âm và dương. Bộ quần áo cưới của nam thường may bằng lụa đen thêu hình rồng màu đỏ. Ngày nay phục trang cưới truyền thống lịch sử của chú rể thường có màu đỏ giống như cô dâu và thêu hoạ tiết rồng bằng chỉ vàng .
Ngoài ra, trong hôn lễ người Hoa còn mua một cặp gà trống, mái thật già, một cặp dừa khô để trong nhà, hay cúng một con gà luộc trong miệng ngậm cọng hành sống … Tất cả đều hướng tới một đời sống bình an, niềm hạnh phúc, với hy vọng đôi trẻ sẽ sống với nhau đến răng long đầu bạc và luôn thông suốt trong tư tưởng .

  1. Những phong tục lạ về đám cưới của người Trung Hoa

Đất nước Trung Quốc to lớn với hàng trăm dân tộc bản địa. Mỗi dân tộc bản địa lại có những nét văn hóa độc lạ, trong đó có điều lạ lùng về cưới hỏi, hôn nhân gia đình .

1 Anh em chung vợ

Hôn nhân của dân tộc bản địa Tạng rất phức tạp. Nói chung, có 3 chính sách : 1 vợ 1 chồng, 1 chồng nhiều vợ, 1 vợ nhiều chồng. Chế độ 1 chồng nhiều vợ thường xảy ra ở những mái ấm gia đình phong phú và những chủ nô. Thường là chị em lấy chung 1 chồng .
Một vợ nhiều chồng chỉ nhiều đồng đội lấy chung 1 vợ. Gia đình kiểu này thường là mẫu hệ. Lại có chuyện nhiều bè bạn lấy chung 1 vợ. Có trường hợp 1 người bạn thân đến nhà bạn và nhà bạn thiếu người làm cho nên vì thế ở lại nhà bạn và quan hệ luôn với vợ bạn .

  1. Cưới cô dâu “cao số”

Ở tỉnh Triết Giang, nếu trước ngày cưới đi xem bói, cô dâu nào không may bị bà thầy phán là có số “ phá gia chi nữ ” thì cô ấy sẽ không được đi kiệu về nhà chồng như những đám cưới thông thường. Trước khi cưới chừng 2,3 ngày, cô dâu phải làm ra vẻ trốn ra khỏi nhà, ra ở nhờ 1 miếu hay đền .
Cô mang theo vài bộ quần áo không lành lặn lắm, 1 cái ô cũ kỹ, 1 cái làn cói có bát, đĩa cũ và 1 đôi đũa. Hành trang của cô giống như 1 kẻ đi ăn xin .
Đến ngày cưới, lúc chập choạng tối, bên nhà gái phải trốn tránh, không ai xuất đầu xuất hiện thêm. Mọi việc do phía nhà trai cáng đáng. Cô dâu thay quần áo mới, trang điểm, xách theo vật dụng đẹp tươi, dưới sự giúp sức của 2 cô gái do nhà trai cử đến .

3.Đốt đuốc đón cô dâu

Dân tộc Đồng ở huyện Tĩnh ( tỉnh Hồ Nam ) đón cô dâu vào giữa đêm. Đi đón cô dâu, phía nhà trai có chừng 30 người. Mỗi người cầm 1 bó đuốc nhựa thông ra khỏi nhà, vượt núi, vượt suối đến nhà cô dâu. Họ vừa đi vừa đánh trống, thổi kèn và chơi nhạc cụ, đầy nhiệt tình vui tươi giữa bát ngát im re .
Đến nhà cô dâu, bên nhà gái rước dâu, cô dâu quàng khăn lên đầu, cổ đeo kiềng, vai khoác vòng hoa, tay phải cầm chiếc ô bằng giấy có phết dầu trẩu ( trừ tà ). Cô dâu đi theo nhà trai cùng 2 cô gái phù dâu trong tiếng nhạc rộn ràng. Nếu trên đường về nhà chồng gặp 1 đám cưới khác, cô dâu phải trao đổi thắt lưng với cô dâu ở đám cưới kia để chúc mừng niềm hạnh phúc nhau .

Khi đám rước dâu về tới cổng nhà, người ta đốt pháo mừng. Một vị trưởng lão trên 50 tuổi đứng ra làm mọi nghi thức đón cô dâu vào nhà. Sau khi làm lễ, cô dâu được mời vào phòng trong, ăn với chú rể bữa cơm đêm. Ngày hôm sau, cô dâu được mời 1 bữa thật ngon, gọi là “yến nhiều món” rồi cùng 2 cô phù dâu trở về nhà mẹ đẻ. Từ đó, chú rể thường đi lại làm khách của cô dâu. Đến khi cô dâu có mang, cô mới mang 1 chiếc xe quay sợi về nhà trai định cư.

  1. Mùa xuân ném cô dâu

Vùng núi Ô Long bên bờ sông Tân An thuộc Vân Nam có mấy làng chài. Người dân ở đây biết bơi từ trong bụng mẹ. Các mái ấm gia đình thường lấy vợ cho con trước TếtNguyên đán chừng 10 ngày để đón năm mới và cô dâu mới. Người dân ở đây có tục “ ném cô dâu ” trong lễ cưới .
Thuyền cưới nhà trai kết hoa xanh đỏ, áp vào thuyền nhà gái, lá xanh và dây hoa rừng trắng. Ném cô dâu là 1 động tác vui tươi, mạo hiểm và thượng võ. Chỉ cần không thận trọng là cô dâu và người ném hoàn toàn có thể lăn xuống nước. Đó là điềm gở cho 2 mái ấm gia đình và làm cho ngày Tết mất vui .
Khi cô dâu bị ném, 1 chàng trai là đồng đội hoặc có họ với cô sẽ ôm ngang sống lưng cô, 1 tay giữ phần mông, dùng sức ném cô dâu sang thuyền nhà trai trong tiếng hô “ 1,2,3 … ”. Người đỡ cô dâu ở bên nhà trai hoàn toàn có thể là chú rể hoặc là 1 người đứng tuổi. Trong lễ ném cô dâu, thuyền nhà trai cho nổ 3 phát pháo, bên thuyền nhà gái nổ 2 phát pháo .
Sau lễ ném cô dâu, mọi người đều trở về làng, đẩy ra cho cô dâu và chú rể 1 chiếc thuyền nhỏ, có đủ thức ăn dùng trong mấy ngày, cô dâu và chú rể bơi thuyền đến 1 nơi khuất nẻo, sống với nhau mấy ngày. Họ phải trở về nhà với cha mẹ vào ngày 23 tháng Chạp để sẵn sàng chuẩn bị Tết .

  1. Tạ hôn và cưới chịu

Phía Nam Trung Quốc gần Nước Ta, người Mán có phong tục lạ là tạ hôn và cưới chịu. Các cô gái thường có 3,4 người tình. Nhưng một khi cô đã chính thức đính hôn với ai, cô sẽ cắt bỏ quan hệ với người khác. Điều lạ là đêm tân hôn, cô dâu không làm lễ động phòng với chú rể mà đến với người tình cũ để tạ ơn và hưởng đêm xuân với anh ta .
Cô gái phải đi tạ ơn mỗi người tình 1 đêm rồi quay trở lại với chồng. Khi trai gái kết hôn, nhà trai phải mang sang nhà gái nhiều của cải và vật phẩm, tổ chức triển khai yến tiệc linh đình chiêu đãi cả bộ tộc. Nếu nhà trai không có tiền thì nhà gái cho chịu, rồi sẽ phải trả. Do vậy, có đám cưới đến khi con cháu đầy đàn mới trả hết nợ .

  1. Lễ cưới vào ban đêm

Các dân tộc người Trung Quốc thường tổ chức triển khai làm lễ cưới vào ban ngày, riêng dân tộc bản địa Mãn làm đám cưới vào đêm hôm. Ngày cưới, nhà gái dùng xe mui đưa cô dâu về nhà chồng, nhà trai dùng chiếc xe trang trí để rước dâu. Hai bên gặp nhau giữa đường, anh ruột hoặc anh họ cô dâu bế cô dâu từ mui xe của nhà gái lên xehoa của nhà trai. Dù giữa mùa hè oi bức, cô dâu cũng phải mặc áo kép, chỗ vai và đầu gối còn phải độn ít bông, mang ý nghĩa đầy đặn và trung hậu .
Khi xe cô dâu về đến nhà trai, chú rể đứng đợi ở trước cổng và giương cung đặt tên, nhằm mục đích xe cô dâu vờ bắn 3 phát. Sau đó, chú rể dẫn cô dâu đến trước bàn thờ cúng đặt giữa sân, 2 vợ chồng cùng vái trời đất. Tiếp đó, chú rể dùng cán cân hoặc roi ngựa nâng chiếc khăn trùm đầu của cô dâu, đặt trên nóc nhà bạt đã cắm sẵn từ trước, có ý nghĩa là thỏa mãn nhu cầu thuận ý .
Lúc khều khăn trùm đầu, chú rể dùng tay xoa đầu tóc của cô dâu, tượng trưng cho đôi vợ chồng kết tóc xe tơ. Cô dâu bước qua 1 chậu lửa, lại nhảy qua yên ngựa rồi vào nhà bạt, mặt hướng về nam, làm lễ an tọa .
Làm lễ xong, cô dâu phải đi giày của mẹ chồng, tỏ ý sẽ đi theo bước chân của mẹ chồng. Tục lệ đó nói lên nguyện vọng tốt đẹp của lớp già mong con dâu mới cưới sẽ noi theo người trước ăn ở thuận hòa với láng giềng, làng trên xóm dưới. Lễ tân hôn có cỗ, cô dâu chú rể uống chén rượu tơ hồng, ăn bánh treo nửa chín nửa sống, có ý nghĩa mong ước con cháu đầy đàn .
Đêm tân hôn, trên bàn thờ cúng có đôi nến thắp sáng suốt đêm. Gian ngoài của nhà bạt có những người hát những khúc ca chúc mừng. Một số bè bạn hoặc láng giềng vãi những hạt đậu nành, đậu đen vào nhà, chúc vợ chồng mới làm ăn phong phú, dư dật, con đàn cháu lũ. Lễ cưới lê dài cho đến khuya .

  1. Tục ném bùn trong đám cưới

Dân tộc Đồng ở Trung Quốc có tục ném bùn vào nhau đúng ngày cô gái đi lấy chồng được 1 năm. Cô gái cùng 9 cô bạn chơi ném bùn với chồng và những bạn của chồng trên mảnh ruộng đầy bùn. Khi chơi đã mệt, họ nhảy ùm xuống sông, té nước vào nhau. Trong số đó, có đôi nào chú ý nhau thì bơi ra xa và chàng trai trong đôi đó sẽ được mời tham gia hội ném bùn năm sau .

  1. Kính chó hơn người

Thanh niên Hà Nhì Trung Quốc rất tiết kiệm chi phí lời nói khi yêu đương. Họ dùng cách Tặng Ngay hoa cho nhau để nói về tình yêu. Chàng trai khuyến mãi ngay cho cô gái 2 bông hoa, 1 vàng 1 đỏ. Cô gái Tặng Kèm lại cho chàng trai 1 bông hoa đỏ hoặc vàng. Màu vàng chỉ sự lưỡng lự, màu đỏ là yêu. Cô gái Tặng Kèm bó hoa mà ở giữa có giò hoa cánh đơn, tức là cô ấy còn đơn chiếc, chưa có bạn trai chính thức. Nếu ở giữa có giò hoa cánh kép tức là cô gái đã có người yêu rồi. Gia đình người Hà Nhì rất kén con dâu. Trong mái ấm gia đình cô dâu mới được cưới về, mẹ chồng được gọi là chó nhà trời. Truyền thuyết kể rằng xưa kia người Hà Nhì không biết trồng cây, cũng như dệt vải .
Cô con út nhà trời đã lấy cắp giống lúa của cha cho người Hà Nhì, dạy mọi người cách dệt vải để may quần áo. Cô út bị gọi về trời, bị biến thành con chó và bị đày xuống trần gian. Từ đó, người Hà Nhì rất kính trọng chó. Ngày Tết của người Hà Nhì thường được tổ chức triển khai trang trọng. Nhưng bát cơm tiên phong phải dành cho chó, rồi mọi người mới được vào tiệc .

  1. Tình yêu cắn

Mùa thu sau vụ thu hoạch, người trẻ tuổi Mèo chưa vợ sẽ mang những gói gạo mới Tặng Ngay tình nhân. Thanh niên những trại tổ chức triển khai ở 1 trại nào đó 1 bữa ăn có rượu thịt linh đình. Trong bữa ăn, những đôi đã tìm dược đến nhau. Nến ưng nhau, họ cắn vào bả vai nhau .
Cắn cũng là 1 nghệ thuật và thẩm mỹ, làm thế nào cho vết cắn hằn lên, thậm chí còn chảy máu. Sau đó, chàng trai buộc vào cổ tay cô gái mấy sợi dây nhỏ màu xanh và màu đen. Cô gái cũng buộc vào cổ tay chàng trai vài sợi màu đỏ. Sau đó, lễ cưới được tổ chức triển khai vào 1 ngày lành tháng tốt .

  1. Tục thử giường

Vùng Lạc Dương Trung Quốc có tục thử giường trước khi cưới. Trước hôm làm lễ 1 ngày, nhà cửa những phòng phải ngăn nắp thật sạch, nhất là buồng cô dâu chú rể. Chiếc giường được chú ý quan tâm đặc biệt quan trọng. Giường, đệm, chăn, gối phải dùng mới .
Đêm hôm đó, chú rể phải mời 1 người hoặc 2 chú bé đến ngủ cùng ở giường cưới. Tục lệ này được gọi là thử giường lấy phước. Nếu không có em nhỏ thì mời bạn trai đến, nhưng nhất thiết bạn trai đó phải chưa có vợ. Người được mời đến ngủ cùng chú rể trước ngày cưới cảm thấy rất vinh dự. Nếu em nhỏ được mời đến ngủ cùng chú rể mà đang đêm có được .. bãi đái dầm thì thật là điều tốt đẹp .

VII. Ảnhhưởng của phong tục cưới hỏi Trung Hoa đến một số nước xung quanh

Phong tục cưới hỏi của Nước Trung Hoa tác động ảnh hưởng đến khá nhiều nước châu Á xung quanh như những nước Khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản, Nước Hàn, … nhưng trong đó quốc gia Nước Ta tất cả chúng ta có những tác động ảnh hưởng rõ nét nhất. Những lễ nghi, tập tục chính của nước ta cũng giống như Trung Quốc. Chúng ta cũng sử dụng chữ Hỷ, màu đỏ để trang trí rất phổ cập như mâm lễ vật, thiệpmời, áo dài cưới … của cô dâu ..
Ngày nay, đám cưới của người Trung Quốc đã được giản lược đi rất nhiều và có phần bị ảnh hưởng tác động bởi văn hòa phương Tây. Tuy nhiên 1 số ít nghi lễ chủ chốt như thuê bà mai, cầu hôn, xin dâu, đính hôn vẫn được giữ nguyên và là nét văn hóa rực rỡ lôi cuốn nhiều hành khách .

  • BỔ SUNG

Trả lời thắc mắc của cô giáo và những bạn :

1.Ý nghĩa việc uống rượu giao bôi

Đây là một trong những nghi lễ quan trọng có ý nghĩa ghi lại móc vàng son cho tình yêu, cho niềm vui niềm hạnh phúc trăm năm của một đôi uyên ương .

2.Ý nghĩa của việc dùng số chẵn trong mâm lễ vật

Số chẵn 8,10,12 mâm tượng trưng cho việc có cặp có đôi. Cầu chúc cho và mong ước cho cặp vợ chồng trẻ luôn có nhau và cùng sinh con đàn cháu đống, sống với nhau đến đầu bạc răng long .

  1. Ý nghĩa của việc cô dâu dùng khăn che mặt

Những chiếc khăn trùm đầu mỏng dính, khôn khéo che đi khuôn mặt ngượng ngùng, đồng thời hấp dẫn ánh mắt trìu mến của chú rể luôn là một phụ kiện làm đẹp trong ngày cưới, một độc quyền mà chỉ những cô dâu mới có. Ở Trung Quốc, vào ngày cưới cô dâu sẽ dùng chiếc khăn trùm đầu bằng lụa, màu đỏ có những hình thêu uyên ương điển hình nổi bật để che khuất khuôn mặt của mình. Người ta ý niệm rằng, việc che mặt trong ngày cưới là một cách để tránh tà ma, quỷ dữ đến bắt những cô dâu. Bên cạnh đó, chỉ chú rể mới là người có độc quyền gỡ chiếc khăn này xuống .
Có một câu truyện dân gian xưa, bật mý rằng ai là người tiên phong đội chiếc khăn đỏ này ! Kỳ thực, người ý tưởng ra chiếc khăn voan đỏ che mặt cô dâu, chính là vợ của Gia Cát Lượng ( dân gian tương truyền rằng, vợ của Gia Cát Lượng tên là Hoàng Nguyệt Anh, Hoàng Thụ hoặc là Hoàng Thạc ), bài viết này sẽ lấy cái tên mang màu sắc đẹp đẽ là Hoàng Nguyệt Anh .
Hoàng Nguyệt Anh là con gái của danh sĩ nổi tiếng Hoàng Thừa Ngoạn ở Hà Nam. Bởi vì từ nhỏ đã rất hiếu học, quen đọc binh thư, trên thông thiên văn, dưới rành địa lý, văn thao vũ lược, đa mưu túc trí. Dân gian tương truyền, Hoàng Nguyệt Anh có dáng người thô, mái tóc vàng, da đen nhiều nốt tàn nhang, thậm chí còn có mấy nốt ruồi lớn trên mặt, vậy nên được nhận định và đánh giá là người phụ nữ có dung mạo xấu xí .
Nhưng lại có câu truyện khác kể rằng, kỳ thực Hoàng Nguyệt Anh có dung mạo xinh đẹp, nhưng những người phụ nữ khác trong làng đố kị ghanh tỵ nàng, vậy nên mới hạ nhục dung mạo của nàng .
Tuy nhiên, Hoàng Nghuyệt Anh không để tâm những chuyện này, chính do nàng có tiêu chuẩn kén chọn người bạn đời tri kỷ của mình. Khi Gia Cát Lượng sẵn sàng chuẩn bị kén chọn một nửa yêu thương thì Hoàng Nguyệt Anh nghe nói Gia Cát Lượng tri thức, nhân phẩm đều tốt, vì vậy 10 phần ngưỡng mộ. Nàng sau đó đã thỉnh phụ vương dữ thế chủ động bàn chuyện hôn nhân gia đình. Nàng thỉnh phụ vương ở trước mặt Gia Cát Lượng mà cố ý nói rằng dung mạo của mình xấu xí, muốn xem xem Gia Cát Lượng có hay không chỉ là một người phàm phu tục tử chỉ biết xem mặt mà bắt hình dong .
Vì vậy, Hoàng Thừa Ngạn trước Gia Cát Lượng mà nói rằng : Mình có một đứa con gái xấu xí, tóc vàng da đen, nhưng chắc như đinh hoàn toàn có thể xứng đôi với Lượng. Thật giật mình, Gia Cát Lượng vừa nghe xong, đã lập tức sẵn sàng chuẩn bị đồng ý chấp thuận ngay. Nguyên là, Gia Cát Lượng đã sớm biết được Hoàng Nguyệt Anh có đức hạnh tốt, nên đã ngưỡng mộ từ lâu .
Sau khi Gia Cát Lượng nhận lời, đã đi đến Hoàng phủ để cầu hôn. Không ngờ rằng từ Hoàng phủ chạy ra 2 con chó, lao thẳng vào khách mà cắn. Thấy vậy nha hoàn từ trong nhà nhanh chân chạy ra vỗ nhẹ lên đầu 2 chú chó hung ác rồi nhéo 2 cái tai của chúng. Điều quá bất ngờ chính là, hai con chó hung tàn vậy lại ngoan ngoãn lui vào trong hiên nhà, ngồi chồm hổm xuống. Gia Cát Lượng nhìn kỹ thì nguyên lại là 2 chú chó được làm bằng gỗ. Lúc này, Gia Cát Lượng vẫn tỉnh bơ không vì thế mà bật cười. Hoàng Thừa Ngạn lại gần, nói với Lượng rằng trò đùa này của con gái mình quả thật là hơi quá ! Nhưng mà, ngày hôm đó, Gia Cát Lượng vẫn không gặp được Hoàng Nguyệt Anh. Đến ngày cưới, Hoàng Nguyệt Anh vì muốn thăm dò xem Gia Cát Lượng rốt cuộc là vì cớ gì mà đồng ý chấp thuận cưới nàng, liền cố ý phủ lên đầu một tấm khăn màu đỏ. Nàng muốn xem xem tâm thái của Gia Cát Lượng như thế nào khi mở chiếc khăn voan. Thật giật mình, Gia Cát Lương không nói lời nào liền vén mở chiếc khăn voan, nhưng lại nhìn thấy một Hoàng Nguyệt Anh xinh đẹp nên ông tỏ vẻ kinh ngạc. Gia Cát Lượng cho rằng sự tình có gì đó nhầm lẫn, liền quay đầu định chuẩn bị sẵn sàng rời đi. Hoàng Nguyệt Anh vội một tay giữ chặt ông lại, kể với ông đầu đuôi vấn đề .
Kể từ ngày đó, đã trở thành một tập tục, khi những cô nương kết hôn, trong ngày cưới, họ sẽ phủ một lên đầu chiếc khăn màu đỏ .
Và quả thật là, vừa mưu trí lại vừa đức hạnh, Hoàng Nguyệt Anh đã trở thành một người vợ hiền, bí mật lui về sau làm hậu phương ủng hộ và trợ giúp cho chồng. Và Gia Cát Lượng cũng một lòng chung thủy với người vợ của mình .
Có người cho rằng sau đó Hoàng Nguyệt Anh vẫn mang khăn che mặt mỗi khi ra ngoài. Điều đó chứng tỏ rằng bà không phải là người trọng hư danh, không vì chút sĩ diện, danh dự mà làm tác động ảnh hưởng đến đời sống mái ấm gia đình, gây nên nhiều trộn lẫn không thiết yếu .
Một người phụ nữ có vị thế, có nhan sắc và có kĩ năng như bà lại đồng ý rút lui, làm cái bóng phía sau chồng, phẩm chất này chỉ có ở những người phụ nữ dịudàng, nhân hậu … Hoàng Nguyệt Anh quả thật là người vợ hiền mà Khổng Minh tiên sinh đã suôn sẻ tìm thấy được .

4.Quan niệm của người Trung Hoa về vấn đề trinh tiết

Trong xã hội Trung Hoa xưa, trinh tiết được coi là thứ quan trọng nhất so với mỗi người phụ nữ. Người ta ý niệm rằng một người con gái trước hôn nhân gia đình phải giữ gìn được trinh tiết mới được coi là đức hạnh. Phỏng theo tục cổ Trung Quốc : nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông bà đã mất trinh ( Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu ) .

5.Quan niệm về “ Môn đăng hộ đối”(门当户对)

Dịch một cách nôm na nhất “ Môn đăng hộ đối ” có nghĩa là : Ngoài cửa có treo đèn và trong nhà có treo câu đối .
Quan niệm hôn nhân gia đình của người Hoa thuở xưa cũng yên cầu có sự “ môn đăng hộ đối ”. Nhà trai mong ước kiếm được nàng dâu mà mái ấm gia đình giàu sang để nở mặt nở mày, để tương hỗ trong việc kinh doanh thương mại. Nhà gái thì cũng mong kiếm được một tấm chồng cho con mình sao cho xứng danh, để gởi tấm thân đài các, cho con có chỗ nương thân suốt đời. Đặc biệt, nếu chàng rể có vị thế xã hội thì càng tốt .
Các mái ấm gia đình khá giả, việc gả chồng cưới vợ cho con cháu, bậc làm cha mẹ luôn muốn nơi con mình đến làm dâu, làm rể là một mái ấm gia đình tương ứng với mái ấm gia đình của mình, điều này biểu lộ tính giai cấp, những tầng lớp trong xã hội ; nếu không thực thi được điều này người làm cha mẹ thường lấy làm xấu hổ. Còn những mái ấm gia đình nghèo khó thường không có khái niệm môn đăng hộ đối ..
Do chịu tác động ảnh hưởng truyền kiếp của phong kiến Trung Quốc và Khổng giáo nên hôn lễ của người Hoa còn được ràng buộc bởi nhiều nghi thức. Người Hoa rất trọng lễ nghĩa và trong mỗi cuộc hôn nhân gia đình truyền thống lịch sử nhất thiết phải “ môn đăng hộ đối ” và thực thi đủ “ tam thư, lục lễ ” .

6.Ý nghĩa của việc dùng đầu heo ( thủ lợn) trong lễ vật nhà trai mang đến nhà gái

Trong văn hóa, con lợn cũng được cọi với nhiều tên như con heo, chú ỉn, trư, hợi. Trong văn hóa phương Đông, lợn đứng ở đầu cuối trong 12 con giáp ( Hợi ) và cũng đứng ở đầu cuối trong lục súc .
Lợn biểu trưng cho sự phồn thực, tính dục và sự nhàn nhã sung túc. Người ta còn dùng hình ảnh con heo đất như thể một hình tượng về kinh tế tài chính. Ngoài ra, thủ lợn ( đầu heo ) là một món sính vật quan trọng trong mâm lễ vật ngày cưới được dùng để bộc lộ cho những ý nghĩa trên .

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Mạng Internet ( Hầu hết tài liệu )
Sách Lịch sử văn hóa Trung Quốc ( Đàm Gia Kiên )

 

 

 

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải …