Phong cách văn học phong cách nghệ thuật – Tài liệu text
Phong cách văn học phong cách nghệ thuật
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.25 KB, 4 trang )
Bạn đang đọc: Phong cách văn học phong cách nghệ thuật – Tài liệu text
Phong cách văn học
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, sáng tạo. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cho riêng
mình một phong cách nghệ thuật nổi bật, khiến người thưởng thức cảm nhận được những nét
riêng biệ, rất mới lạ, đầy bất ngờ,…khơi gợi sự thú vị, lòng hăng say…trong những món ăn tinh
thần được sáng tạo dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đó. Không nằm ngoài lĩnh vực nghệ
thuật nên văn học luôn đòi hỏi người sáng tác phải có một phong cách riêng độc đáo. Nói như
Nam Cao, thì “ văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu
mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những
nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có (Đời thừa)”.
Lao động của nhà văn là lao động sáng tạo, nên dù muốn hay không, mỗi nhà văn phải tạo cho
mình một nét riêng, một phong cách nghệ thuật không trộn lẫn. Do đó, có thể coi phong cách là
dấu ấn riêng của người nghệ sĩ in đậm trong các sáng tác nghệ thuật của họ.
Phong cách văn học là một phạm trù thẩm mĩ thể hiện sự tương đối ổn định của hệ thống
hình tượng, các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo, sáng tạo trong quá
trình sáng tác của nhà văn giữa trào lưu văn học – văn hóa dân tộc hayxuyeen suốt dòng chảy
thơ văn của cả một thời đại. Phong cách văn học đem đến cái nhìn mới mẻ, khác lạ của nhà văn
trong việc cảm nhận và phản ánh cuộc sống. Buy-phông đã từng nói: “phong cách chính là
người”. Nó là điều còn lại, là hạt nhân cốt lõi sau khi từ nhà văn, chúng ta bóc đi những cái
không phải là của bản thân anh ta với tất cả những thứ anh ta giống với người khác.
Phong cách nghệ thuật dánh dấu sự trưởng thành và bản lĩnh cá nhân của nhà văn trong sáng
tác. Song không phải nhà văn nào cũng có thể tạo cho mình một dấu ấn cá nhân; không phải
phong cách nào cũng độc đáo và có giá trị. Bởi mỗi tác giả có một cách nhận thức và phản ánh
nhận thức của mình, tuy nhiên chỉ riêng sự khác biệt chưa thể làm nên phong cách. Chỉ những
nhà văn có bản lĩnh và tài năng mới đủ sức tạo ra những nét riêng độc đáo, lặp đi lặp lawij mang
tính thống nhất trong cả nội dung hoặc hình thức tác phẩm, như một loài hoa mang màu sắc và
hương thơm riêng. Hay nói cách khác, nhà văn phải có gia tài văn học vừa đa dạng, phong phú
từ thể loại đến số lượng…, vừa có giá trị mà các tác phẩm của họ hợp thành một thể thống
nhất, độc đáo. Đó là những dấu ấn quen thuộc giúp độc giả nhận ra gương mặt của nhà văn, là
cái đích mà mỗi nhà văn chân chính đặt ra trong quá trình sáng tạo.
Phong cách văn học có những biểu hiện đa dạng, phong phú:
1. Thứ nhất là qua cách nhìn, cách cảm mang tính khám phá. Mỗi nhà văn luôn muốn tạo
cho mình một hướng quan sát và khám phá riêng về hiện thực cuộc sống. Hay nói như
Macxen Pruxt: “Đối với nhà văn cũng như người (nghệ sĩ) họa sĩ, phong cách không phải
là vấn đề kĩ thuật mà là vấn đề cái nhìn.”
Trong những tác phẩm văn xuôi thời kì 1930 – 1945, Ngô Tất Tố quan tâm tới số phận
cơ cực của những người người nông dân trong cảnh bần cùng hóa (Tắt đèn); Nam Cao
Đặc biệt quan tâm tới sự tha hóa của con người trước những tác động nghiệt ngã của
hoàn cảnh sống (Đời thừa, Chí Phèo); Thạch Lam lại lo âu trước tình trạng sống nhàm
chán, vô nghĩa, buồn tẻ của những số phận trong xã hội (Hai đứa trẻ)…
Cách nhìn con người cũng làm nên phong cách riêng của mỗi nhà văn. Nhân vật của
Nguyễn Tuân luôn là những biểu tượng của cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Nhân vật của
Nam Cao trong những sáng tác trước 1945 như những mảnh vỡ của bi kịch khi mọi ước
mơ, khát vọng cao đẹp lần lượt bị hủy hoại trước thực tế. Với Nguyễn Công Hoan,
những con người xuất hiện trong sáng tác của ông thường ngô nghê, khờ khạo trước
những cạm bẫy cuộc đời. Rất nhiều đứa con tinh thần của Vũ Trọng Phụng xuất hiện như
những nhân cách méo mó trong một thế giới “vô nghĩa lí”.
2. Phong cách còn là giọng điệu riêng của mỗi tác giả. Trong “Một thời đại trong thi ca”.
Hoài Thanh và Hoài Chân đã giúp ta nhận mặt thi nhân Việt: “một hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…
và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Đó chính là những nét khắc họa tinh tế
của Hoài Thanh và Hoài Chân về phong cách của mỗi nhà thơ trong phong trào thơ mới
1932 – 1945
3. Phong cách còn thể hiện qua quan niệm của nhà văn về cuộc sống con người thông qua
việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống con người, cách
chọn nhân vật. (ví dụ: giống mục 1).
4. Phong cách cũng được tạo bởi những yếu tố hình thức như tư duy nghệ thuật, ngôn
ngữ, kết cấu tác phẩm, thể loại,…
M.Gorki đã từng nhận xét: “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ
quan của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và làm cho những ấn tượng
ấy có được hình thức riêng”.
Thơ Nguyễn Đình Thi đậm chất tạo hình: Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Thơ Tố Hữu lại nghiêng về biểu cảm, thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng, triết lí mang
vẻ đẹp trí tuệ sâu sắc,… Ngôn ngữ văn Kim Lân dung dị đời thường,… Truyện không có
cốt truyện, mỗi truyện ngắn tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, đó là phong cách
độc đáo của văn Thạch Lam. Những thiên tùy bút tài hoa phóng túng mang đậm dấu ấn
của cái “tôi” cá nhân được coi là thể loại đắc địa cho nhà văn Nguyễn Tuân. Thể thơ lục
bát quê kiểng, ngọt ngào như dành riêng để Nguyễn Bính gửi gắm những tâm tình mộc
mạc chân quê trong tác phẩm của mình.
Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá một nghệ sĩ là ở chỗ anh ta có đem lại một cái gì mới
mẻ riêng biệt hay nói chính xác là một phong cách độc đáo cho nền văn học dân tộc hay
không. Không phải ngẫu nhiên, Tagore lại nói: “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loài
người không phải bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính
mình”. Hiểu nôm na ra, nghệ thuật phải thống nhất trong bản chất cốt lõi nhưng cách
triển khai lại đa dạng, đổi mới. Phong cách nghệ thuật không phải là sự bất biến cố định,
mà khi triển khai phải phong phú, đa dạng và đổi mới.
Phong cách là thước đo của nghệ thuật. Phong cách độc đáo được biểu hiện ở tính thẩm
mĩ cao, đem đến cho người đọc sự hưởng thụ dồi dào qua những tác phẩm giàu tính
nghệ thuật sinh động và hấp dẫn.
Mỗi công dân có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ không trộn lẫn.
Vậy phong cách bắt nguồn từ đâu?
1. Phong cách văn học nảy sinh do chính nhu cầu của cuộc sống, xã hội: luôn đòi hỏi sự
xuất hiện của nhân tố mới chưa lặp lại bao giờ.
Ở mỗi thời đại nhất định, do sự chi phối của những điều kiện văn hóa lịch sử, xã hội cụ
thể, các sáng tác văn học có thể có những nét chung về tư duy nghệ thuật và kĩ thuật
biểu hiện. Thời cổ đại, con người bị chi phối nghiệt ngã bởi điều kiện khách quan của
hoạt động sinh tồn, hoàn toàn phụ thuộc vào cộng đồng, trở thành một bộ phận không
thể tách rời của cộng đồng, các nhân vật văn học không được khắc họa cá tính riêng m,à
được xây dựng như những đại diện ưu tú cho sức mạnh, vẻ đẹp và phẩm chất của cộng
đồng – đó là trường hợp của Đăm Săn trong trường ca Đăm Săn. Chế độ phong kiến với
những ràng buộc nghiêm ngặt của tam cương, ngũ thường cũng là nguyên nhân tạo nên
tính quy phạm của văn học Trung đại. Cụ thể, đó là quan điểm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ
ngôn chí”, là sự tư duy nghệ thuật theo những khôn mẫu ở một số thể loại văn học với
những quy định chặt chẽ về kết cấu, niêm luật, hệ thống điển tích, điển cố và những thi
liệu văn học quen thuộc… Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài
suốt 30 Năm đòi hỏi sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, Bác Hồ…
đó là hoàn cảnh đặc biệt của xã hội Việt Nam từ thời kì 1945 – 1975 chi phối tính chất
chung của một nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Công
cuộc đổi mới đất nước từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đem đến cho đời sống
văn học một luồng gió mới, văn học dần vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính
nhân bản, nhân văn sâu sắc. Đề tài được mở rộng từ hiện thực đời sống chính trị – xã hội
đén những mảng hiện thực bề bộn, phức tạp của cuộc sống. Sự vận đọng xuôi chiều lạc
quan, tươi sáng trong những mô típ chủ đề hữu hạn và đơn nhất trước 1975 đã được bổ
sung và đi sâu vào diễn biến đầy bất ngờ, bí ẩn trong tính đa nghĩa của các tầng bậc chủ
đề. Từ thuần túy là những nhân vật loại hình với chức năng cơ bản của cộng đồng, biểu
dương chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam, nhân vật văn
học sau năm 1975 luôn được khám phá và thể hiện ở chiều sâu cảm thức, giúp nhà văn
phản ánh những hiện thực phong phú, phức tạp của cuộc sống đời thường…
Mỗi đất nước, mỗi dân tộc với đặc điểm riêng về văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán,…
sáng tác văn học cũng sẽ mang những đặc điểm phong cách đặc thù. Tinh thần thiền
tông và đặc điểm văn hóa phương Đông là nét riêng độc đáo trong những bài thơ Hai-cư
tinh tế, hàm súc của các nhà thơ Nhật Bản. Quan niệm “quý hồ tinh bất quý hồ đa” cũng
là một trong những nhân tố tạo nên nét đặc sắc của những bài thơ tứ tuyệt Việt Nam
thời Trung đại.
2. Phong cách văn học còn bắt nguồn do nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, nhu cầu khẳng định
bản lĩnh, tìm tòi cái mới của nhà văn để tạo nên tính hấp dẫn, sức sống cho tác phẩm
của mình.
M.Gorki nhận xét: “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật” cũng là vì lẽ đó.
Ý nghĩa của phong cách văn học
Phong cách văn học chính là dấu ấn thẩm mĩ, là gương mặt riêng độc đáo trong thế giới nghệ
thuật của mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học, giai đoạn văn học hoặc một nền văn học. Qua đó,
nó giúp nghệ sĩ khẳng định cái tôi cá nhân tài hoa độc đáo, vừa tài năng, bản lĩnh khác ngườ,
thậm chí là hơn ngườ của nhà văn; giúp tác phẩm hấp dẫn người đọc, tạo nên sức mạnh của
trường phái hoặc trào lưu văn học; đánh dấu bước phát triển của quá trình văn học và lịch sử.
Tiếp nhận văn học từ góc độ phong cách văn học không chỉ đem đến cho người đọc những
cảm xúc thẩm mĩ dồi dào, mà còn giúp nhận thức sâu sắc hơn những yếu tố quan trọng trong
quá trình văn học như: quan niệm nghệ thuật về con người, giá trị văn học, quy luật phát triển
của văn học…
Hoa Huyền Hương – Sưu tầm và chỉnh sửa
cho mình một hướng quan sát và tò mò riêng về hiện thực đời sống. Hay nói nhưMacxen Pruxt : “ Đối với nhà văn cũng như người ( nghệ sĩ ) họa sỹ, phong cách không phảilà yếu tố kĩ thuật mà là yếu tố cái nhìn. ” Trong những tác phẩm văn xuôi thời kì 1930 – 1945, Ngô Tất Tố chăm sóc tới số phậncơ cực của những người người nông dân trong cảnh bần cùng hóa ( Tắt đèn ) ; Nam CaoĐặc biệt chăm sóc tới sự tha hóa của con người trước những ảnh hưởng tác động nghiệt ngã củahoàn cảnh sống ( Đời thừa, Chí Phèo ) ; Thạch Lam lại lo âu trước thực trạng sống nhàmchán, không có ý nghĩa, buồn tẻ của những số phận trong xã hội ( Hai đứa trẻ ) … Cách nhìn con người cũng làm ra phong cách riêng của mỗi nhà văn. Nhân vật củaNguyễn Tuân luôn là những hình tượng của cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Nhân vật củaNam Cao trong những sáng tác trước 1945 như những mảnh vỡ của thảm kịch khi mọi ướcmơ, khát vọng cao đẹp lần lượt bị hủy hoại trước trong thực tiễn. Với Nguyễn Công Hoan, những con người Open trong sáng tác của ông thường ngô nghê, dại khờ trướcnhững cạm bẫy cuộc sống. Rất nhiều đứa con niềm tin của Vũ Trọng Phụng Open nhưnhững nhân cách méo mó trong một quốc tế “ vô nghĩa lí ”. 2. Phong cách còn là giọng điệu riêng của mỗi tác giả. Trong “ Một thời đại trong thi ca ”. Hoài Thanh và Hoài Chân đã giúp ta nhận mặt thi nhân Việt : “ một hồn thơ rộng mở nhưThế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như NguyễnNhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì quặc như Chế Lan Viên … và thiết tha, rạo rực, do dự như Xuân Diệu ”. Đó chính là những nét khắc họa tinh tếcủa Hoài Thanh và Hoài Chân về phong cách của mỗi nhà thơ trong trào lưu thơ mới1932 – 19453. Phong cách còn bộc lộ qua ý niệm của nhà văn về đời sống con người thông quaviệc lựa chọn đề tài, thiết kế xây dựng chủ đề, cách lí giải yếu tố về đời sống con người, cáchchọn nhân vật. ( ví dụ : giống mục 1 ). 4. Phong cách cũng được tạo bởi những yếu tố hình thức như tư duy nghệ thuật, ngônngữ, cấu trúc tác phẩm, thể loại, … M.Gorki đã từng nhận xét : “ Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủquan của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và làm cho những ấn tượngấy có được hình thức riêng ”. Thơ Nguyễn Đình Thi đậm chất tạo hình : Ôi những cánh đồng quê chảy máuDây thép gai đâm nát trời chiềuThơ Tố Hữu lại nghiêng về biểu cảm, thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng, triết lí mangvẻ đẹp trí tuệ thâm thúy, … Ngôn ngữ văn Kim Lân dung dị đời thường, … Truyện không cócốt truyện, mỗi truyện ngắn tựa như một bài thơ trữ tình đượm buồn, đó là phong cáchđộc đáo của văn Thạch Lam. Những thiên tùy bút tài hoa phóng túng mang đậm dấu ấncủa cái “ tôi ” cá thể được coi là thể loại đắc địa cho nhà văn Nguyễn Tuân. Thể thơ lụcbát quê kiểng, ngọt ngào như dành riêng để Nguyễn Bính gửi gắm những tâm tình mộcmạc chân quê trong tác phẩm của mình. Tiêu chuẩn cao nhất để nhìn nhận một nghệ sĩ là ở chỗ anh ta có đem lại một cái gì mớimẻ riêng không liên quan gì đến nhau hay nói đúng mực là một phong cách độc lạ cho nền văn học dân tộc bản địa haykhông. Không phải ngẫu nhiên, Tagore lại nói : “ Có thể vượt qua quốc tế lớn lao của loàingười không phải bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách lan rộng ra truyền thống của chínhmình ”. Hiểu nôm na ra, nghệ thuật phải thống nhất trong thực chất cốt lõi nhưng cáchtriển khai lại phong phú, thay đổi. Phong cách nghệ thuật không phải là sự không bao giờ thay đổi cố định và thắt chặt, mà khi tiến hành phải đa dạng và phong phú, phong phú và thay đổi. Phong cách là thước đo của nghệ thuật. Phong cách độc lạ được bộc lộ ở tính thẩmmĩ cao, đem đến cho người đọc sự tận hưởng dồi dào qua những tác phẩm giàu tínhnghệ thuật sinh động và mê hoặc. Mỗi công dân có một dạng vân tayMỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ không trộn lẫn. Vậy phong cách bắt nguồn từ đâu ? 1. Phong cách văn học phát sinh do chính nhu yếu của đời sống, xã hội : luôn yên cầu sựxuất hiện của tác nhân mới chưa lặp lại khi nào. Ở mỗi thời đại nhất định, do sự chi phối của những điều kiện kèm theo văn hóa truyền thống lịch sử vẻ vang, xã hội cụthể, các sáng tác văn học hoàn toàn có thể có những nét chung về tư duy nghệ thuật và kĩ thuậtbiểu hiện. Thời cổ đại, con người bị chi phối nghiệt ngã bởi điều kiện kèm theo khách quan củahoạt động sống sót, trọn vẹn phụ thuộc vào vào hội đồng, trở thành một bộ phận khôngthể tách rời của hội đồng, các nhân vật văn học không được khắc họa đậm chất ngầu riêng m, àđược thiết kế xây dựng như những đại diện thay mặt xuất sắc ưu tú cho sức mạnh, vẻ đẹp và phẩm chất của cộngđồng – đó là trường hợp của Đăm Săn trong trường ca Đăm Săn. Chế độ phong kiến vớinhững ràng buộc khắt khe của tam cương, ngũ thường cũng là nguyên nhân tạo nêntính quy phạm của văn học Trung đại. Cụ thể, đó là quan điểm “ văn dĩ tải đạo ”, “ thi dĩngôn chí ”, là sự tư duy nghệ thuật theo những khôn mẫu ở một số ít thể loại văn học vớinhững lao lý ngặt nghèo về cấu trúc, niêm luật, mạng lưới hệ thống điển tích, điển cố và những thiliệu văn học quen thuộc … Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc bản địa vô cùng ác liệt kéo dàisuốt 30 Năm yên cầu sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng, Bác Hồ … đó là thực trạng đặc biệt quan trọng của xã hội Nước Ta từ thời kì 1945 – 1975 chi phối tính chấtchung của một nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Côngcuộc thay đổi quốc gia từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI ( 1986 ) đã đem đến cho đời sốngvăn học một luồng gió mới, văn học dần hoạt động theo hướng dân chủ hóa, mang tínhnhân bản, nhân văn thâm thúy. Đề tài được lan rộng ra từ hiện thực đời sống chính trị – xã hộiđén những mảng hiện thực bộn bề, phức tạp của đời sống. Sự vận đọng xuôi chiều lạcquan, tươi tắn trong những mô típ chủ đề hữu hạn và đơn nhất trước 1975 đã được bổsung và đi sâu vào diễn biến đầy giật mình, huyền bí trong tính đa nghĩa của các tầng bậc chủđề. Từ thuần túy là những nhân vật mô hình với tính năng cơ bản của hội đồng, biểudương chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Nước Ta, nhân vật vănhọc sau năm 1975 luôn được mày mò và bộc lộ ở chiều sâu cảm thức, giúp nhà vănphản ánh những hiện thực phong phú và đa dạng, phức tạp của đời sống đời thường … Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bản địa với đặc thù riêng về văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc, phong tục, tập quán, … sáng tác văn học cũng sẽ mang những đặc thù phong cách đặc trưng. Tinh thần thiềntông và đặc thù văn hóa truyền thống phương Đông là nét riêng độc lạ trong những bài thơ Hai-cưtinh tế, hàm súc của các nhà thơ Nhật Bản. Quan niệm “ quý hồ tinh bất quý hồ đa ” cũnglà một trong những tác nhân tạo nên nét rực rỡ của những bài thơ tứ tuyệt Việt Namthời Trung đại. 2. Phong cách văn học còn bắt nguồn do nhu yếu phát minh sáng tạo nghệ thuật, nhu yếu khẳng địnhbản lĩnh, tìm tòi cái mới của nhà văn để tạo nên tính mê hoặc, sức sống cho tác phẩmcủa mình. M.Gorki nhận xét : “ Cái thông thường là cái chết của nghệ thuật ” cũng là vì lẽ đó. Ý nghĩa của phong cách văn họcPhong cách văn học chính là dấu ấn thẩm mĩ, là khuôn mặt riêng độc lạ trong quốc tế nghệthuật của mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học, quá trình văn học hoặc một nền văn học. Qua đó, nó giúp nghệ sĩ chứng minh và khẳng định cái tôi cá nhân tài hoa độc lạ, vừa kĩ năng, bản lĩnh khác ngườ, thậm chí còn là hơn ngườ của nhà văn ; giúp tác phẩm mê hoặc người đọc, tạo nên sức mạnh củatrường phái hoặc trào lưu văn học ; ghi lại bước tăng trưởng của quy trình văn học và lịch sử dân tộc. Tiếp nhận văn học từ góc nhìn phong cách văn học không chỉ đem đến cho người đọc nhữngcảm xúc thẩm mĩ dồi dào, mà còn giúp nhận thức thâm thúy hơn những yếu tố quan trọng trongquá trình văn học như : ý niệm nghệ thuật về con người, giá trị văn học, quy luật phát triểncủa văn học … Hoa Huyền Hương – Sưu tầm và chỉnh sửa
Source: https://thoitrangredep.vn
Category: Phong Cách