Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm
PHONG CÁCH THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Bạn đang đọc: Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm
TRONG TRƯỜNG CA MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG
Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở lại nuôi cái cùng con
Cuộc kháng chiến chống Mỹ dần lui vào lịch sử. Song, những năm tháng hào hùng đó không thể nào quên. Có một pho sử được chép bằng những tác phẩm thơ ca, dài suốt hai mươi năm.Trên trái đất này, không một dân tộc nào lại không tha thiết với hòa bình, độc lập. Song, có lẽ, với dân tộc ta, khát vọng ấy cháy bỏng hơn cả. Suốt hành trình giữ nước, không có thời nào thiếu vắng những dũng sĩ cầm thanh gươm nghìn cân ra trận, âm vang trận mạc đã làm nên dòng chủ lưu của thơ chống Mỹ.
Sự ra đời phát triển của nền thơ chống Mỹ đã góp phần vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ ca lại đóng góp nhiều tài năng, tâm huyết với những tác phẩm có sức sống với thời gian như thơ giai đoạn chống Mỹ. Đặt thơ chống Mỹ trong lòng thời đại, có thể khẳng định mỗi vần thơ là tiếng gọi động viên, cổ vũ dân tộc vùng lên đánh giặc. Một trong những nét nổi bật của thơ chống Mỹ là sự xuất hiện của đội ngũ những nhà thơ trẻ. Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nguyễn Khoa Điềm…Chính họ làm nên sức bật và sức sống mới cho thơ ca giai đoạn này. Chính họ đã cất lên tiếng nói đầy tự tin về ý thức trách nhiệm và nhiệt huyết cháy bỏng trong trái tim cả thế hệ mình – thế hệ tự nguyện nhập cuộc và trải nghiệm qua thử thách chiến tranh. Mỗi gương mặt thơ trẻ đó mang một cá tính, một giọng điệu riêng làm nên những phong cách nghệ thuật độc đáo.
… Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc sống mình
… Mỗi câu thơ như sợi tơ dài
Rút ra từ tháng ngày bom đạn. Họ đã dám sống hết mình với thời đại : những câu thơ thật chân thành từ tâm lý nội tâm của thời đó, mà thời điểm ngày hôm nay đọc lại, ai đó dễ quy chụp là có phần nào cao giọng, cường điệu. Sự thật, nó vẫn phản ánh trung thực những tâm lý tận tâm và thông dụng của một thời. Phải đặt vào đúng văn cảnh của nó, thì mới thấy hết được rằng đó là những câu thơ hay, những câu thơ gan ruột : ” Ði qua hết tuổi thanh xuân / Ðể lại trong rừng những gì quý nhất / Mất mọi thứ để nhân dân không mất ” ( Phạm Tiến Duật ), là : ” Trời ơi ! Nếu quân địch chiếm được / Chỉ một gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cằn / Tổ quốc sẽ ra sao, Tổ quốc ! ” ( Hữu Thỉnh ). ” Những người đi cùng thế hệ với tôi / Sắp sống trọn bản trường ca lịch sử vẻ vang / … / Họ đã sống một thời khắc nghiệt / Muốn sống thông thường thôi cũng phải sống anh hùng / Nuôi sống người là cây lá trên rừng / Vầng trăng đẹp nhưng bóng đêm cần cho người vượt lộ / Đường nhiều địch không kịp nhìn hoa nở / Thắng trận về chim báo đã sang xuân / Cái thời gian ngàn năm qua mới có một lần / Ngàn năm sau chưa dễ gì có lại / … / Và câu truyện về những người con gái / Tuổi xuân đi qua trong khói lửa mặt trận / Đem máu xương giành lại quê nhà / Là câu truyện tương lai nhiều thế hệ / Trong độc lập tự do cầm tay nhau sẽ kể / Với ánh trăng non với cánh rừng già / Với con đường mà họ đã đi qua “.
Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm viết không nhiều, nhưng từ số lượng rất ít ấy vẫn hiện lên một tâm hồn thi sĩ thực sự với những rung động tinh xảo, với quốc tế nội tâm nồng nàn sâu lắng. Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có phong cách rõ nét và có góp phần quan trọng cho thành tựu của thơ chống Mỹ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm là những phác hoạ về mặt trận Bình Trị Thiên khói lửa những năm chống Mỹ, và là bức tranh về trào lưu đấu tranh chính trị của học viên, sinh viên trong đô thị tạm chiếm miền Nam. Mảng nội dung quan trọng này được trải qua một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm với một ngòi bút năng lực. Thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết tinh của xúc cảm và trí tuệ để thăng hoa thành thơ. Đó không chỉ là loại sản phẩm của một trí tuệ phong phú, một tư duy tinh tế mà đó còn là mẫu sản phẩm của một tấm lòng, một trái tim nên có sức lay động ở tận đáy sâu tâm hồn người đọc. 1. Gia đình, Quê hương.
Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 04 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm xã Phong Hòa huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cố đô Huế nói riêng và dải đất miền Trung văn hiến, hữu tình là nơi tạo nôi ru lớn bao hồn thơ dân tộc. Quê hương Nguyễn Khoa Điềm – dải đất miền Trung cát trắng, nơi đầu sóng ngọn gió đã hứng chịu bao biến động của lịch sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn của kẻ thù trong chiến tranh. Mảnh đất ấy cũng là trung tâm văn hóa lớn của đất nước, nơi đau đáu một nỗi niềm “nhớ nước đau lòng ” của bà Huyện Thanh Quan, nơi Nguyễn Du ươm những vần thơ trĩu nặng tâm tư – Truyện Kiều, nơi đã sinh ra vị lãnh tụ vĩ đại mang tâm hồn thi sĩ Hồ Chí Minh…, và ở thế kỉ XX đã sinh thành, quy tụ những ngôi sao văn hoá sáng chói: Hải Triều, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư…và đặc biệt là Tố Hữu lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng. Mảnh đất miền Trung, bên dưới lớp sỏi đá khô cằn là mạch nước nguồn trong mát nuôi dưỡng bao thế hệ sáng tác trong suốt cả thời kì lịch sử dài.
Nói về quê nhà Nguyễn Khoa Điềm không hề không nói riêng về Huế. Huế với những lăng tẩm đền đài thâm nghiêm, huyền bí. Con người Huế không ồn ào mà thâm trầm, lặng lẽ, kín kẽ. Dòng Hương Giang cũng lững lờ trôi hoà nhịp với giọng hò mái nhì mái đẩy buồn man mác. Những nét đặc trưng của Huế đã tạo nên hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà sâu lắng, hài hòa trí tuệ và xúc cảm. Thành phố Huế cổ kính nằm bên dòng sông Hương đã gắn bó với Nguyễn Khoa Điềm bao kỉ niệm ấu thơ, và trong những năm tháng hoạt động giải trí chiến đấu trên mặt trận Trị Thiên – Huế, đã trở thành nguồn phân phối cho Nguyễn Khoa Điềm những cảm hứng và vật liệu thi ca. Huế đã đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm từ ngoại ô nghèo đến quốc lộ uy nghi cổ kính, từ dòng Hương giang đến những con đường rợp bóng phượng vĩ. Huế là mệ, là chị, là em, là bè bạn chiến sỹ trong những đêm không ngủ, những ngày xuống đường. Nguyễn Khoa Điềm như mong muốn sinh ra và lớn lên trên miền đất ấy. Hơn mười năm học tập ở miền Bắc, nhà thơ đã quay trở lại chiến đấu và hoạt động giải trí để chắt lọc từ trong khói lửa cuộc chiến tranh, trong hi sinh mất mát những vần thơ mang âm hưởng sử thi hào hùng. Sức sống dồi dào, sự trỗi dậy kiên cường bất diệt của quê nhà khắc khổ mà hoành tráng đã ảnh hưởng tác động không nhỏ tới phẩm chất con người và phẩm chất thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm đã giáp mặt với cuộc chiến tranh, cận kề với bom đạn và cái chết, đã từng xuống đường đương đầu với Mỹ Nguỵ, đã từng chịu cảnh ngục tù. Những thử thách đó như lửa thử vàng, càng làm sáng tỏ lí tưởng cách mạng kiên trì trong tâm tưởng nhà thơ. Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra trong một mái ấm gia đình “ Danh gia vọng tộc ” có truyền thống cuội nguồn yêu nước và hiếu học. Dòng họ Nguyễn Khoa vốn có gốc gác ở Thành Phố Hải Dương, đến đời Nguyễn Khoa Đăng thì chuyển vào Huế. Nguyễn Khoa Đăng là một ông quan nội giám có tài yên dân, được dân gian truyền tụng và ôn g cũng chính là ông tổ của dòng họ Nguyễn Khoa ở đất kinh kì mà Nguyễn Khoa Điềm là hậu duệ đời thứ tư. Cụ nội Nguyễn Khoa Điềm từng làm chức quan bố chánh, sau theo trào lưu Cần vương rồi từ quan về nhà. Ông nội Nguyễn Khoa Điềm là một nhà nho có niềm tin yêu nước, từng được bầu vào Viện dân biểu Trung kì do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Viện trưởng. Bà nội Nguyễn Khoa Điềm là Nữ sử Đạm Phương, cháu nội vua Minh Mạng. Là người hoàng tộc nhưng bà có niềm tin yêu nước tân tiến, là tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo bênh vực quyền hạn của phụ nữ và trẻ nhỏ lúc bấy giờ. Cha Nguyễn Khoa Điềm là Nguyễn Khoa Văn, tức Hải Triều, một chiến sỹ cách mạng, một nhà lí luận văn hoá mác-xít xuất sắc đã chiến đấu và hi sinh cho cách mạng đến hơi thở ở đầu cuối. Cống hiến lớn nhất của Hải Triều là trên nghành nghề dịch vụ lí luận văn học và triết học qua hai cuộc tranh luận nổi tiếng “ Duy tâm hay duy vật ” và “ Nghệ thuật vị thẩm mỹ và nghệ thuật hay nghệ thuật và thẩm mỹ vị nhân sinh ” trong suốt thập kỉ ba mươi của thế kỉ XX – một thập kỉ có ý nghĩa bản lề của cách mạng Nước Ta. Trong cuộc đấu tranh này, Hải Triều đã có công truyền bá tư tưởng và quan điểm mác-xít trên báo chí truyền thông công khai minh bạch, một tên tuổi chói sáng trên văn đàn Việt Nam những năm ba mươi. Sinh ra trong một mái ấm gia đình văn hoá giàu lòng yêu nước, Nguyễn Khoa Điềm chắc như đinh được thừa kế những phẩm chất ưu việt của dòng họ ở cả ý thức yêu nước, cách mạng và truyền thống cuội nguồn văn hoá. Nhưng đây chưa phải là những yếu tố quyết định hành động làm ra kĩ năng và thành công xuất sắc. Chính sự thưởng thức đời sống ở mặt trận, sự sẻ chia với nhân dân những gian truân khó khăn vất vả, đau thương mất mát mở ra một hiện thực nhiều mẫu mã trước mắt người làm thơ. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khoa Điềm đã không khởi đầu từ phòng văn mà nảy mầm kết trái ở chính nơi đầu sóng ngọn gió của cuộc chiến đấu. Sống hết mình với hiện thực, rung động tận đáy lòng với đời sống và phát huy những sức mạnh tiềm tàng của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã lưu tên tuổi của mình vào nền thơ dân tộc bản địa. 2. Nền thơ chống Mỹ và âm hưởng chung của thơ trẻ miền Nam chống Mỹ. 2.1. Nền thơ chống Mỹ. Văn học Nước Ta thời kì chống Mỹ cứu nước ( 1965 – 1975 ) có một vị trí quan trọng trong lịch sử vẻ vang văn học dân tộc bản địa. Đây là thời kì văn học tăng trưởng rực rỡ tỏa nắng trên nhiều thể loại, trở thành cuốn biên niên được các nhà thơ khắc hoạ một cách chân thực về cuộc cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc bản địa. Thơ quá trình chống Mỹ cứu nước biểu lộ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Nước Ta, bản lĩnh con người Nước Ta, phản ánh được khí thế tầm vóc của cả một dân tộc bản địa mang hơi thở thời đại. Có thể nói đây là thời kì tỏa nắng rực rỡ nhất của thơ ca Nước Ta văn minh. Từ tháng 8 năm 1964, khi đế quốc Mỹ lan rộng ra cuộc chiến tranh ra miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc bản địa ta bước sang một tiến trình mới gay go, ác liệt. Nhanh nhạy và kịp thời, nền thơ văn minh đã tham gia tham gia vào cuộc cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc bản địa. Suốt những năm tháng cuộc chiến tranh, các thế hệ nhà thơ đã tiếp bước nhau dàn quân trên các mặt trận với cảm hứng chủ yếu là biểu lộ khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Nước Ta trong thời đại chống Mỹ. Nền thơ chống Mỹ được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ : Thế hệ nhà thơ Open trước cách mạng ( Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh … ), thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp ( Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng … ) và thế hệ các nhà thơ trẻ sinh ra trong thời kì chống Mỹ. Mỗi nhà thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những góp phần đáng ghi nhận cho nền thơ chống Mỹ. Chỉ trong vòng mười năm, nền thơ chống Mỹ đã liên tục Open những khuôn mặt trẻ như ( Thái Giang, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Khoa Điềm, Bế Kiến Quốc, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ Dạ … ) Đó là những khuôn mặt tiêu biểu vượt trội của thế hệ thơ thời kì chống Mỹ. Các nhà thơ thời kì này ý thức thâm thúy nghĩa vụ và trách nhiệm công dân của mình. “ Các nhà thơ đã đưa thơ lên những chiến hào, nơi mũi nhọn của cuộc chiến đấu ” Chế Lan Viên đã tự hào vẽ lên tầm vóc và tư thế của nhà thơ trong cuộc chiến đấu của cả dân tộc bản địa : “ Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ, Bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi ” ( Tổ quốc khi nào đẹp thế nàychăng ? ) Còn Xuân Diệu thì nói về sự gắn bó của nhà thơ với nhân dân, quốc gia : Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc sống chiến đấu Của triệu người yêu dấu gian lao ( Những đêm hành quân ) Thơ thời kì kháng chiến chống Mỹ tập trung chuyên sâu thiết kế xây dựng hai loại hình tượng cái tôi trữ tình đó là “ cái tôi ” sử thi và “ cái tôi ” thế hệ. Cái tôi sử thi đã tạo cho nhà thơ một tâm thế mới. Nhà thơ phát ngôn cho cả dân tộc bản địa, quốc gia, nhân dân. Nhà thơ đứng ở tầm cao thời đại để bao quát cả thời hạn, khoảng trống, cả hiện tại và quá khứ, tương lai để phát hiện suy ngẫm. Vì vậy hình tượng trong thơ cũng mang tầm vóc sử thi, tầm vóc con người được đo bằng chiều kích khoảng trống, ngoài hành tinh, khắc hoạ được tầm vóc dân tộc bản địa trong thời đại đánh Mỹ. Thơ ca chống Mỹ không chỉ góp phần to lớn về mặt nội dung, mà còn biểu lộ bước tiến lớn về mặt hình thức. Hiện thực đời sống ùa vào thơ góp thêm phần tạo nên những cách biểu lộ mới lạ, độc lạ, vừa tìm những mảnh đất mới để khám phá, vừa “ thâm canh ” trên chính mảnh đất của những hình thức và phương tiện đi lại biểu lộ truyền thống cuội nguồn. Tất cả những bước tiến đó đã khẳng định chắc chắn sự xâm nhập của thơ với hiện thực, năng lực chớp lấy tinh nhạy, kịp thời của các nhà thơ trước thời đại lịch sử dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được thắng lợi, thơ chống Mỹ đã góp một lời nói xứng danh về cuộc ra trận lớn lao của dân tộc bản địa, “ Không có nhiều trong những bức tranh xã hội to lớn, những câu truyện kể mê hoặc về đời sống dân tộc bản địa, nhưng thơ chống Mỹ là lời nói tâm tình tha thiết, là khúc ca chiến đấu, là lời tự thể hiện chân tình ý chí của một dân tộc bản địa quyết chiến và quyết thắng ”. Nó hoàn thành xong thiên chức vẻ vang của một nền thơ, ghi lại được thời kì lịch sử dân tộc đau thương mà hào hùng của dân tộc bản địa, lưu lại một chặng đường tăng trưởng của thơ ca Nước Ta tân tiến .. 2.2. Thơ trẻ miền Nam chống Mỹ. Trong thành công xuất sắc của trào lưu thơ chống Mỹ, phải kể đến sự góp phần rất lớn của thế hệ các nhà thơ trẻ, trong đó có các cây bút sinh viên – học viên miền Nam như : Trần Quang Long, Nguyễn Thái Bình, Thái Ngọc San, Trần Vàng Sao, Đông Trình, Tần Hoài Dạ Vũ, Võ Quê … Hàng loạt các tập thơ sinh ra nói lên niềm tin yêu nước và đấu tranh của thế hệ trẻ miền Nam Thơ họ tươi tắn đằm thắm, vượt lên những chán chường bế tắc và những vay mượn siêu hình đương thời để cất lên tiếng gọi lên đường : Nếu thơ con bất lực Con xin nguyện trọn đời Dùng chính trái tim mình làm trái phá Sống chết một lần thôi Đó là những vần thơ của Trần Quang Long – một cây bút bỏ thành ra vùng giải phóng sau Mậu Thân 1968. Anh đã triển khai lời thề thiêng liêng, tha thiết trong thơ, và đã ngã xuống trong tư thế người chiến sỹ. Có những bài thơ đã liên kết tuổi trẻ đấu tranh bởi sức lay động sâu xa của nó. Trong lửa đạn cuộc chiến tranh, những bài thơ của Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, Võ Quê … thực có sức cảm hoá lạ lùng. ” Bài thơ của một người yêu nước mình ” – Trần Vàng Sao, đăng lần đầu trên báo Hồ Chí Minh đã được quay rônêô ở chiến khu, sau đó chuyển phát hành về Huế năm 1967 và được lưu truyền thoáng đãng. Võ Quê viết những bài thơ ” Lục bát từ Côn đảo ” trong những ngày tù đày. Và từ khí thế đấu tranh sôi sục của trào lưu học viên, sinh viên Huế, nhà thơ đã viết những câu thơ hào sảng về một ngày giải phóng : Kiêu hùng tóc biếc bay cao Em tung nón rách nát em gào tự do … Đó là khí thế của cả nước nói chung và của Huế nói riêng trong những ngày sục sôi chống Mỹ. Những hình ảnh giàu tính biểu cảm trên bộc lộ khí thế của tuổi trẻ thành Huế quyết tâm đứng lên đấu tranh giải phóng quê nhà. Thơ Nguyễn Kha cũng như đốt bùng lên trào lưu tuổi trẻ học đường. Và nhà thi sĩ – chiến sỹ ấy cũng đã quyết tử trên một sườn đồi ở ngoại ô thành Huế : Ta nghe chừng đoàn người ngựa Thăng long Đang phá vỡ trùng vây, đập tan quân cướp nước Ta đã thấy vành đai lan rộng ra Thành phố rộn ràng khoác áo tứ thân Nhìn chung các tác phẩm của các tác giả trên đã bộc lộ được chiều sâu tâm hồn, tình cảm của những người đang chiến đấu. Họ đại diện thay mặt cho tuổi trẻ miền Nam và cả nước đứng lên tranh đấu giải phóng quốc gia, quê nhà. Ở họ đều có một điểm chung đó là lòng yêu nước. Những câu thơ tươi tắn đằm thắm của họ góp thêm phần tạo nên hình ảnh đẹp của thế hệ trẻ miền Nam. Thơ trẻ chống Mỹ là một hiện tượng kỳ lạ đặc biệt quan trọng, bởi chưa có quy trình tiến độ nào trong thơ lại cùng một lúc Open một đội ngũ phần đông các nhà thơ cùng một thế hệ tuổi trẻ. Giữa mặt trận to lớn mỗi nhà thơ chọn cho mình một mảng hiện thực tương thích để sáng tác, tạo ra những vùng nghệ thuật và thẩm mỹ riêng. Nếu như vùng nghệ thuật và thẩm mỹ của Phạm Tiến Duật là đường Trường Sơn với đời sống của những người lính lái xe, của những cô người trẻ tuổi xung phong thì vùng nghệ thuật và thẩm mỹ của Nguyễn Khoa Điềm là trào lưu học viên, sinh viên đô thị bị tạm chiếm miền Nam. Chọn cho mình một mảng hiện thực đặc biệt quan trọng nên tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm có một giọng điệu riêng. Đó là lời nói đại diện thay mặt của tuổi trẻ miền Nam trong quy trình nhận đường về với nhân dân, với dân tộc bản địa. Quá trình nhận thức ấy quả không đơn thuần. Sống trong thành phố bị quân địch chiếm đóng, Cách mạng so với họ thật lạ lẫm. Đối diện với từng ngày từng giờ là cảnh bắt lính của chính quyền sở tại tay sai, là những cám dỗ của đời sống xấu đi, buông thả : Sông Hương ơi sông Hương Ngươi còn nguồn với bể Để đi và để đến Còn ta hai lăm tuổi Trôi cạn trên mặt đường ( Mặt đường khát vọng ) Trường ca Mặt đường khát vọng đã tái hiện lại quy trình nhận thức của tuổi trẻ miền Nam dưới ách Mỹ – Ngụy : từ nỗi đau quê nhà nhận rõ chân tướng quân địch, sự thức tỉnh về nghĩa vụ và trách nhiệm của tuổi trẻ trong công cuộc cứu nước, tình cảm với nhân dân quốc gia để rồi ở đầu cuối xuống đường, hoà vào dòng thác nhân dân đấu tranh vì độc lập tự do. Hành trình đến với lý tưởng, với cách mạng, nhân dân của tuổi trẻ thành thị miền nam vô cùng gian truân, phức tạp. Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh họ, và nhà thơ hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam để cất lên lời nói của chính họ. Nhà thơ cùng họ thấm thía xót xa về thân phận nô lệ : Phượng vẫn rơi những cánh tươi hồng Đau như máu những tâm hồn son trẻ Sao con học để làm bầy nô lệ Súng Mỹ thời điểm ngày hôm nay thành giáo cụ học đường Với sự đồng cảm thâm thúy, với vốn hiểu biết khá kĩ lưỡng về đời sống của tuổi trẻ thành thị miền Nam – tác dụng của một quy trình công tác làm việc gắn bó với thực tiễn trào lưu học viên, sinh viên, ở trường ca Mặt đường khát vọng, tuổi trẻ thành thị miền Nam đã cất tiếng trải qua khúc hát của nhà thơ. 3. Nguyễn Khoa Điềm – phong cách rực rỡ của Thơ trẻ chống Mỹ. 3.1. Khái niệm phong cách thẩm mỹ và nghệ thuật thơ. Buffon cho rằng : “ Phong cách chính là người ” mỗi nhà văn thường có một tạng riêng. Thi pháp văn học Nga định nghĩa “ Phong cách là một mạng lưới hệ thống hình thức và nội dung nhất định, là nguyên tắc thẩm mỹ và nghệ thuật để cấu trúc hàng loạt nội dung và hình thức ”. Các nhà nghiên cứu lí luận nước ta cũng đã bỏ nhiều công sức của con người điều tra và nghiên cứu nội hàm thuật ngữ phong cách. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học trên cơ sở thừa nhận hai phạm trù : phong cách ngôn từ và phong cách nghệ thuật và thẩm mỹ đã định nghĩa ” Đó là cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại bộc lộ tập trung chuyên sâu ở cách cảm nhận độc lạ về quốc tế và ở mạng lưới hệ thống bút pháp nghệ thuật và thẩm mỹ tương thích với cách cảm nhận ấy “. Quả thật tính độc lạ là yếu tố quyết định hành động tạo phong cách nghệ thuật và thẩm mỹ.
3.2 Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Trong quy trình hoạt động và tăng trưởng của nền thơ chống Mỹ, Open thế hệ các nhà thơ trẻ, trong đó có Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã xuất hiện và đi suốt cả chặng đường cuộc chiến tranh và đã lưu lại thành tựu của mình qua những chặng đường sáng tác. Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm thời kì chống Mỹ cứu nước là cảm hứng lớn về quốc gia và nhân dân anh hùng Sự thống nhất độc lạ của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm ở cảm hứng hiện thực thời đại, ở những chủ đề quen thuộc, ở phương diện biểu lộ cái tôi trữ tình đa dạng chủng loại phong phú, với lớp ngôn từ, hình ảnh xúc cảm ẩn sau mặt phẳng câu chữ một cảm quan lịch sử dân tộc văn hoá thâm thúy độc lạ. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm yêu nước không đơn thuần chỉ là nhiệt tình nhiệt huyết chiến đấu và căm thù giặc can đảm và mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu quốc gia làm sống dậy trong trang thơ lịch sử vẻ vang bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc bản địa với những chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện của những gì thân mật nhất, thân thương nhất của mỗi con người Nước Ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời hạn và khoảng trống, trong lịch sử vẻ vang và truyền thống cuội nguồn văn hoá … Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là hồn Việt thấm đượm trong tâm hồn để từ đó đúc rút một chân lý vững vàng : Đất nước của nhân dân. Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Vì vậy tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm không riêng gì nói lên những tâm lý cảm nhận của tuổi trẻ trong cuộc chiến tranh, về sự sáng sủa hay cái nhìn tráng lệ thành thật, thậm chí còn trần trụi về những mất mát … mà còn thể hiện những tâm lý hiện thực thâm thúy hơn rất nhiều. Thơ Nguyễn Khoa Điềm biểu lộ lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, về nhân sinh quan để dựng lại cả quy trình “ tìm đường ” và “ nhận đường ” của tuổi trẻ đô thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc bản địa, nhân dân. Tài năng và đậm cá tính phát minh sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện trong những phương diện thẩm mỹ và nghệ thuật : đó là thi pháp biểu lộ mang phong cách riêng, từ giọng điệu trữ tình giàu chất chính luận, đến việc thiết kế xây dựng vật liệu thơ giàu vật liệu hiện thực, vật liệu văn hoá và giàu tính liên tưởng .., từ việc sử dụng những tín hiệu thẩm mỹ và nghệ thuật vừa truyền thống lịch sử vừa tân tiến đến việc sử dụng linh động thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của cảm hứng với một vốn từ ngữ giàu sang vừa dân dã vừa mang tính văn hoá thời đại. 3.3 Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm trong “ Mặt đường khát vọng ” 3.3.1 Hoàn cảnh sáng tác trường ca “ Mặt đường khát vọng ”.
Năm 1964 sau khi tốt nghiệp khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương, hoà mình vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù và cuộc chiến đấu gian khổ bất khuất của đồng chí, đồng bào, những điều đó đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Trở về Huế, sau nhiều tháng trời hành quân ròng rã, Nguyễn Khoa Điềm đến Tỉnh uỷ Thừa Thiên và được phân công công tác vận động thanh niên của Thành uỷ Huế. Thời gian hai năm gắn bó với phong trào học sinh sinh viên thành phố Huế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là thời gian nhà thơ hoà mình vào tuổi trẻ thành phố bị chiếm đóng. Từ những “đêm không ngủ”, những ngày “xuống đường”, Nguyễn Khoa Điềm đã tích luỹ cho mình vốn sống và sự trải nghiệm để cảm hứng thơ trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng. Trường ca Mặt đường khát vọng được viết tại khu sáng tác Trị Thiên – Huế tháng 10 năm 1971 dài 9 chương: Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ không yên, Đất Nước, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão. Đặc biệt thành công nhất là chương Đất nước. Đất nước đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với Đất nước của Nguyễn Đình Thi, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở thành hai áng thơ đẹp nhất viết về Tổ quốc của văn học Việt Nam hiện đại.
3.3.2. Đất Nước của Nhân dân Nhà điều tra và nghiên cứu Hoài Anh cho rằng thơ Nguyễn Khoa Điềm phát sáng trong chủ đề sóng đôi : Đất và Khát vọng. Cảm hứng Đất nước ôm trùm chi phối những nguồn cảm hứng khác. Trong cuộc chiến tranh cảm hứng Đất nước đi liền với khát vọng gìn giữ chủ quyền lãnh thổ dân tộc bản địa thắng lợi quân địch xâm lược. Chủ đề này được Nguyễn Khoa Điềm tiến hành trong thơ bằng không khí sử thi hào hùng của cuộc chiến đấu chống Mỹ. Để tái hiện ý thức thời đại, thơ Nguyễn Khoa Điềm trình diện những xúc cảm nồng nàn bay bổng trước vận mệnh chung của toàn dân tộc bản địa. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm hứng sử thi anh hùng khi nào cũng đi cùng cảm hứng lãng mạn và lí tưởng hoá tạo nên những hình ảnh thơ kì vĩ hùng tráng. Cảm hứng sử thi khi nào cũng song hành với chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Cảm hứng sử thi là cảm hứng cao trào, dâng tràn lòng yêu nước, tự hào trước sự quật khởi của quốc gia. Trong tâm thức Nguyễn Khoa Điềm luôn ý niệm chính Nhân dân vô danh đã làm nên quốc gia. Có lẽ thế cho nên mà chủ nghĩa anh hùng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không Open những tên tuổi vang dội mà nhà thơ thường chú ý quan tâm khai thác chất anh hùng trong những biểu lộ hàng ngày của cuộc chiến đấu ác liệt với những con người bình dị. Ở phương diện sở hữu hiện thực mặt trận, thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hòa vào dàn đồng ca hào hùng của thơ trẻ chống Mỹ. Nếu như trong âm hưởng chung người ta hoàn toàn có thể nhận ra những giọng điệu riêng không liên quan gì đến nhau : Hoàng Nhuận Cầm hồn nhiên mơ mộng ; Phạm Tiến Duật hóm hỉnh tinh nghịch pha chút ngang tàng ; Dương Hương Ly khoẻ khoắn thiên về ngợi ca ; Bằng Việt sâu lắng và trong sáng … thì thơ Nguyễn Khoa Điềm là thứ thơ đằm sâu mà ngân vang. Độ thâm thúy của thơ Nguyễn Khoa Điềm phần nào nổi trội hơn nhiều tác giả trẻ khác chính là ở sự biểu lộ phong phú và đa dạng và xúc động một chủ đề, một tư tưởng : Đất nước của nhân dân được soi chiếu từ góc nhìn lịch sử vẻ vang – văn hóa truyền thống và trải qua những thưởng thức của chính nhà thơ. Nguyễn Khoa Điềm có một vốn tích luỹ đa dạng và phong phú về nền văn hóa truyền thống dân tộc bản địa. Bước vào cuộc cuộc chiến tranh, sự quyết liệt có vẻ như càng thôi thúc nhà thơ tâm lý nhiều hơn, sâu hơn về quốc gia để có những phát hiện tinh xảo có năng lực làm sống dậy những hình ảnh đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc bản địa. Khi được hỏi về những sáng tác trong cuộc chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã tâm sự : ” Chúng tôi là những tri thức trưởng thành qua cuộc chiến tranh. Chúng tôi phải kêu gọi hết những phần văn hóa truyền thống của mình để chứng tỏ sức mạnh của mình, năng lực sống sót của mình, chứng tỏ mình là con người, lớp người có văn hóa truyền thống. Chính bởi thế mà trong không khí sặc mùi thuốc súng ấy, giữa cái giáp ranh của sự sống và cái chết, tôi muốn đưa vào thơ những hình ảnh đậm nét văn hóa truyền thống nhất của quê nhà quốc gia mình ” Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc bản địa ta là một bản trường ca vĩ đại, hào hùng. Để phản ánh hết không khí hào hùng đó, người viết phải lựa chọn cho mình một hình thức diễn đạt sao cho tương thích nhất nhưng lại có dấu ấn phong cách riêng. Trước nhu yếu đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm cho mình một cách đi riêng. Khái quát những chủ đề về nhân dân, quốc gia, về cách mạng, nhà thơ đã kết hợp chất liệu truyền thống lịch sử và tân tiến, trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về địa lí, phong tục tập quán của nhân dân, quốc gia. Để phản ánh hết được cái hào hùng của thời đại, nhiều nhà thơ thời kì này đều sử dụng thể trường ca – một thể loại bộc lộ được những sự kiện, biến cố lớn của dân tộc bản địa. Nếu trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân là một tình khúc ca được bộc lộ qua thơ lục bát thật êm ả dịu dàng đằm thắm ; “ Bài ca chim chơ rao ” của Thu Bồn lãng mạn, phóng khoáng và bay bổng thì trường ca “ Mặt đường khát vọng ” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi sục nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc rung động lòng người, được toả sáng dưới một cái nhìn mới lạ đầy tính phát hiện. Xuyên suốt chương Đất nước là tư tưởng ” Đất nước của nhân dân ” nhuần nhuỵ trong hình thức ” Đất nước của ca dao thần thoại cổ xưa ” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết trong xúc cảm của nhà thơ. Nó như thể một bản nhạc với vừa đủ những âm vực cao độ xen kẽ nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên sự mê hoặc hấp dẫn người đọc. Thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đề tài Đất nước, Nhân dân, Giọng thơ đầy xúc cảm, sang trọng và quý phái khi hát khúc hát sử thi hoành tráng về Nhân dân, Đất nước. Trọng tâm của bản trường ca nằm ở chương Đất nước, tập trung chuyên sâu và thăng hoa những tâm lý sâu xa nhất của nhà thơ những năm tháng cuộc chiến tranh. Đất nước được tái hiện trong những hình ảnh thân thiện với mỗi con người, Đất nước cũng được đặt trong cái nhìn lịch sử vẻ vang và văn hóa truyền thống trong ” thời hạn đằng đẵng, khoảng trống bát ngát ” để mỗi người cảm nhận hết tầm cao quý thiêng liêng của hai từ Đất nước.
Cảm quan lịch sử dân tộc – văn hóa truyền thống thâm thúy đã tạo nên một chiều sâu riêng, sức mê hoặc khơi gợi đặc biệt quan trọng của chương Đất nước. Chương này là điểm quy tụ và tỏa sáng hàng loạt bản trường ca, tạo nên một vẻ đẹp độc lạ độc lạ so với những trường ca cùng thời. Để tái hiện quy trình khởi đầu và lớn lên của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy cả một khoảng trống văn hóa truyền thống cổ xưa của dân tộc bản địa, trong bề dày lịch sử dân tộc bốn nghìn năm. Bề dày lịch sử dân tộc ấy tiềm ẩn cả chiều sâu của một nền văn hoá đa dạng chủng loại, truyền kiếp, đầy nhân hậu với cả một truyền thống cuội nguồn quý báu của dân tộc bản địa : cần mẫn, chịu khó trong học tập, làm ăn, dũng mãnh trong chiến đấu, chung thuỷ bền vữngtrong tình yêu. Người đọc gặp ở chương Đất nước quốc tế của truyện cổ, kho tàng của ca dao … Lời kể ngày xửa rất lâu rồi của mẹ mở ra xứ sở cổ tích thần kì ; miếng trầu của bà gợi câu truyện Trầu cau, với tình người nồng hậu, thuỷ chung, hình tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc bản địa ; luỹ tre xanh gợi thần thoại cổ xưa Thánh Gióng, như khúc anh hùng ca trang trọng về sức mạnh thần kì của nhân dân Nước Ta từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước, và hình ảnh ” gừng cay muối mặn ” nghĩa tình đằm thắm trong ca dao. Đất nước được gợi lại từ lịch sử dân tộc, được sống dậy qua phong tục tập quán trong đời sống niềm tin của nhân dân : miếng trầu, trồng tre, bới tóc sau đầu, cách đặt tên người, cả tình yêu của con người … Tất cả đều làm ra khuôn mặt dân tộc bản địa – một dân tộc bản địa nghĩa tình đằm thắm. Chất dân gian, hồn dân tộc bản địa như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày thân thiện, cũng lại là những cái bền vững và kiên cố sâu xa hình thành sống sót từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc bản địa, từ những phong tục tập quán được tiếp nối thiêng liêng, qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa truyền thống – lịch sử vẻ vang của quốc gia, nó góp thêm phần chứng minh và khẳng định Đất nước có từ rất lâu rồi, từ khởi thuỷ của dân tộc bản địa khi những dân cư tiên phong tìm hiểu và khám phá đất đai lập nên xứ sở. Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước được hình thành từ sự quy tụ của hai yếu tố Đất và Nước. Hai yếu tố này phối hợp với nhau để rồi từ đó sinh thành nên khung hình đất đai, nước non, xứ sở. Những năm cuộc chiến tranh, đến với ngọn nguồn Hương Giang, Nguyễn Khoa Điềm đã từng suy ngẫm về cội nguồn Đất Nước : Một cái gì rả rích Dưới mấy cội kền kền Như là đất và nước Ru lời ru tiên phong ( Bạn ơi, bạn có nhớ ) Trong chương Đất nước của trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm cũng suy cảm về chủ quyền lãnh thổ mở màn từ hai yếu tố ấy : Đất là nơi em đến trường / Nước là nơi em tắm. Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc / Nướclà nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi. Đất là nơi chim về / Nước là nơi rồng ở. Nhà nghiên cứu và điều tra Chu Văn Sơn cho rằng đó là một loạt ” Những định nghĩa bằng thơ, chúng là loại sản phẩm của một tư duy vừa giàu chất trữ tình thi ca vừa mang tính lịch sử một thời vừa thấm đượm phong vị triết học. ” Hai yếu tố Đất và Nước được nhà thơ soi chiếu trong mối quan hệ với khoảng trống và thời hạn, với lịch sử vẻ vang và hiện tại. Đất nước là mảnh đất quen thuộc gắn bó với mỗi con người, quốc gia thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước nơi lứa đôi hò hẹn, một khoảng trống nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư nhưng cũng đậm hồn quê nhà xứ sở. Đất nước còn là núi sông rừng bể bát ngát, là khoảng trống sống sót và tăng trưởng của bao thế hệ người Việt. Trải qua thời hạn, Đất nước trở thành một giá trị lâu bền, vĩnh hằng và được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác : Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng
Tư tưởng ” Đất nước của nhân dân ” như một cảm quan lịch sử dân tộc chủ yếu của Nguyễn Khoa Điềm, chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử dân tộc của quốc gia, được gìn giữ và kiến thiết bằng máu và mồ hôi của những con người bình dị không tên tuổi. Lịch sử ấy được kết thành từ bao thế hệ, bao số phận : những người vợ nhớ chồng ra trận, từ anh học trò nghèo, những con gà con cóc nhỏ bé, đến gót ngựa Thánh Gióng, 99 con voi chầu đất Tổ Hùng Vương … Mỗi người, mỗi vật đi qua trong lịch sử dân tộc, trong khoảng trống, thời hạn đều để lại một chút ít gì cho quốc gia. Đó chính là nhân dân, bằng những cuộc sống thầm lặng, vô danh đã xây đắp nên giá trị vĩ đại và vĩnh cửu, đó là Đất nước : Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Với cái nhìn xuyên suốt lịch sử dân tộc, tác giả nhấn mạnh vấn đề vai trò của nhân dân. Nhân dân bắng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ Đất nước. Đất nước – đó là sự hóa thân của lịch sử dân tộc, của bao thế hệ đem máu xương gìn giữ : Ôi quốc gia bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc sống đã hóa núi sông ta. ( Mặt đường khát vọng ) Vượt qua thời hạn đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm quốc gia, lịch sừ hào hùng cùa quốc gia như sống dậy. Nhìn lại lịch sứ lâu bền hơn của quốc gia, tất cả chúng ta thường khắc ghi các triều đại nổi danh, ngợi ca những anh hùng nổi tiếng trong trang sử vàng của dân tộc bản địa. Nhưng cảm quan “ Đất Nước của Nhân dân ” đã chi phối cái nhìn lịch sử vẻ vang của nhà thơ : nhân dân là người phát minh sáng tạo ra quốc gia, chiến đấu bảo vệ quốc gia. Con gái con trai bằng tuổi tất cả chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở lại nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ : “ nuôi cái cùng con ”, “ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ” tạo cho lời thơ sự nhuần nhụy hòa quyện rất quyến rũ. Cũng trong dòng cảm hứng mãnh liệt về nhân dân quốc gia nhà thơ Nam Hà viết
Đất nước
Của thơ ca
Của bốn mùa hoa nở
Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian
Nghe xôn xao trong gió nội mây ngàn.
Đất nước
Của những dòng sông
Gọi tên nghe mát rượi tâm hồn
Ngọt lịm, những giọng hò xứ sở
Trong sáng như trời xanh, mượt mà như nhung lụa
Đất nước
Của những người mẹ
Mặc áo thay vai
Hạt lúa củ khoai
Bền bỉ nuôi con, nuôi chồng chiến đấu.
Đất nước
Của những người con gái, con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt ( Nam Hà)
Nốt nhấn của khúc ca ca tụng nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân : Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ dã làm ra Đất Nước. Nhân dân : trong ý niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị và đơn giản, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử dân tộc mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao quý : bảo vệ quốc gia. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những góp phần lớn lao của nhừng người vô danh, hiền lành và đơn giản và giản dị. Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước còn là sự thông suốt các thế hệ Nước Ta, họ đã lao động, phát minh sáng tạo, gìn giữ và truyền lại cho đời sau mọi giá trị văn hoá vật chất, ý thức : từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải niềm tin quý báu như phong tục tập quán truyền kiếp : tên xã, tên làng, giọng nói cha ông … Họ là những anh hùng văn hoá, họ đã bảo tồn từ đời này sang đời khác phong tục và lối sống của dân tộc bản địa mình : Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than con cúi Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân. Đất nước cũng chính là phần tâm linh ngay trong máu thịt mỗi con người : Trong anh và em ngày hôm nay / đều có một phần quốc gia. Giọng thơ đặc biệt quan trọng xúc cảm của những người cùng thế hệ, trải qua giọng ân tình nhắn nhủ của tình yêu, của anh và của em, Nguyễn Khoa Điềm nói lên được sự thống nhất, gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa cá thể và dân tộc bản địa. Trách nhiệm và bổn phận so với quốc gia chính là nghĩa vụ và trách nhiệm so với bản thân mình : Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất nước muôn đời Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh : Phải biết, phải biết …, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm hứng mãnh liệt bật lên tự trái tim, từ sự cảm hiểu thâm thúy về quốc gia, điệu thơ có sức hấp dẫn thôi thúc can đảm và mạnh mẽ, tác động ảnh hưởng đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với quốc gia nên phải biết bảo vệ, giữ gìn quốc gia, hơn thế nữa phải hi sinh vì quốc gia khi vận mệnh dân tộc bản địa lâm nguy. Trong thực trạng quốc gia đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của quân địch, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi nghĩa vụ và trách nhiệm với quốc gia chính là nghĩa vụ và trách nhiệm với chính bản thân mình. Những câu thơ chính trị mà không khô khan chính vì “ phát khởi tự trong lòng ‘ ’ thi nhân, thấm nhuần xúc cảm dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về quốc gia, về nghĩa vụ và trách nhiệm bản thân so với quốc gia. Cũng trong dòng cảm hứng ấy Chế Lan Viên đã viết
Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…
Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước không riêng gì được cảm nhận trong chiều dài của thời hạn lịch sử vẻ vang, mà còn được được cảm nhận trong chiều rộng của khoảng trống địa lí và chiều sâu của truyền thống lịch sử văn hóa truyền thống mang đậm truyền thống dân tộc bản địa. Nếu như khoảng trống trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi là khung trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông … ( Trời xanh đây là của tất cả chúng ta / Núi rừng đây là của tất cả chúng ta … ) thì khoảng trống trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại là sự mở mang, lan toả các vùng đất gắn với sự sống và ý thức dân tộc bản địa. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất Tổ Hùng Vương, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm …, không còn đơn thuần là tên đất, tên người, tên sông, tên núi mà đó là kết tinh của truyền thống lịch sử nhân văn cảm động về những người dân Nước Ta đời thường bình dị, vô danh đã làm nên Đất nước : Ôi quốc gia bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy – Những cuộc sống đã hoá núi sông ta. Đó là lịch sử dân tộc và cũng là hiện thực của dân tộc bản địa, nhân dân ta đang sống và chiến đấu giành sự sống. Sự mới mẻ và lạ mắt độc lạ về hình tượng Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm một phần được tạo nên nhờ cách giải quyết và xử lý ngôn từ thơ đầy phát minh sáng tạo, nhờ cách sử dụng hình ảnh, tín hiệu thẩm mĩ của ca dao tục ngữ, của đời sống dân gian … với một tần số lớn. Chưa khi nào cùng một lúc Open trong thơ một trường văn hoá thuần Việt rực rỡ và đa dạng và phong phú như vậy. Đó là những lịch sử một thời lịch sử vẻ vang đã đi vào tâm linh bao thế hệ người Việt về cội nguồn dân tộc bản địa : Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Sự tích hòn Vọng Phu nói lên sự thuỷ chung của người vợ hóa đá chờ chồng ; Hòn Trống Mái hiện thân của cặp vợ chồng yêu nhau tha thiết. Những luỹ tre, ao đầm để lại mang dấu tích của vết ngựa Thánh Gióng năm nào … Đó là những truyện cổ thấm đẫm lòng yêu nước, yêu cái thiện, yêu lẽ phải trên đời và sự vươn lên bằng niềm tin, kỳ vọng : Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật Biết bao nhiêu niềm hạnh phúc có trên đời Dẫu phải cay đắng dập vùi Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu … Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn là phong tục tập quán ngàn đời của dân tộc bản địa ta : Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Con nộm nang tre đánh lừa cái chết Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu … Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh. Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về Đất nước có một giọng hấp dẫn đặc biệt quan trọng, trì trệ dần và tha thiết, bởi phong vị ca dao tập trung chuyên sâu của rất nhiều thành ngữ, quán ngữ : ngày xửa thời xưa, gừng cay muối mặn, một nắng hai sương, con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi, yêu em từ thuở trong nôi, quý công cầm vàng, nuôi cái cùng con … Tất cả những thần thoại cổ xưa, truyện cổ, hình ảnh ngôn từ – vật liệu của đời sống dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đều quen thuộc, thân thiện và và lắng đọng rất sâu trong tâm thức người Việt. Bởi vậy khi đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, người đọc xúc động, đồng cảm khi nhận ra chính mình cũng để nhận ra mỗi người không còn chỉ là của riêng mình nữa : Trong anh và em ngày hôm nay – đều có một phần quốc gia. Câu thơ thật nhẹ nhàng mà thấm thía. Ta có cảm xúc như nhà thơ đang nói với chính ta về giá trị của con người. Mẹ cha ta cho ta đời sống nhưng Đất nước đã làm cho đời sống ấy đa dạng và phong phú và có ý nghĩa hơn rất nhiều. Con người hoàn thành xong hơn nhờ cái phần quốc gia ấy. Ta chợt nhận ra rằng quốc gia đâu có gì lạ lẫm mà nó nằm trong tâm hồn của mỗi tất cả chúng ta, quốc gia đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ quốc gia, họ là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động phát minh sáng tạo đã dựng xây quốc gia, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Nước Ta mọi giá trị văn hóa truyền thống, phẩm chất ý thức, họ là những anh hùng văn hoá. Họ truyền lại cho đời sau : từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải ý thức quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng. Tiếng nói ấy chính là “ Hồn thiêng sông núi ” ( Huy Cận ), là “ Tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua ” ( Hoài Thanh ). Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ những phẩm chất cao đẹp đúc rút trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ, đó là cái căn nguyên mọi tình cảm đẹp. Nguyễn Khoa Điềm đã phát minh sáng tạo từ những câu ca dao viết về nhân dân : thật say đắm trong tình yêu : Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru Đó là sự quý trọng tình nghĩa :
Cầm vàng mà lội qua sông
Xem thêm: 1001 tips giúp lông mi dài và cong
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng Đó còn là ý thức quật cường quật cường và lòng căm thù giặc thâm thúy : Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què Sử dụng linh động phát minh sáng tạo vật liệu ca dao của văn học dân gian, có vẻ như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải đồng cảm, trân trọng giá trị văn hóa truyền thống dân tộc bản địa thì tác giả mới có cái nhìn thâm thúy, mới lạ ấy trong ý niệm “ Đất Nước cũa Nhân dân ”. Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong ý niệm quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm. Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại cổ xưa. Câu thơ đúc lại như một mệnh đề, là kết tinh của những xúc cảm mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm thâm thúy về quốc gia, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao quý của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc bản địa, tới tiếp thị quảng cáo văn hóa truyền thống, lịch sử vẻ vang vững chắc mà nhân dân là người phát minh sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu tương lai. Hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa vạn vật thiên nhiên, con người đất Việt “ gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi ”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử lịch sử vẻ vang chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ ?
Sự nhạy cảm và hướng về vẻ đẹp của truyền thống cuội nguồn lịch sử dân tộc, văn hoá quốc gia là một bộc lộ độc lạ trong phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Trong cảm nhận chung về lịch sử vẻ vang, văn hoá quốc gia, chất Huế, văn hoá Huế tạo nên cho thơ Nguyễn Khoa Điềm một mảnh hồn riêng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm cất lên tiếng nói của người con đất Huế bằng một giọng thiết tha xứ Huế. Dòng sông Hương để lại ấn tượng nao lòng trong tâm hồn bao người về sự thướt tha, thơ mộng nhưng đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm, dòng sông ấy thật hùng vĩ, hoành tráng, uy nghi, gợi nhớ đến câu thơ của Cao Bá Quát : Trường giang như kiếm lập thanh thiên. Đại nội, hoàng thành trầm mặc rêu phong gợi những triều đại vàng son tuy đã lùi vào dĩ vãng, nhưng còn vang vọng ý thức yêu nước quật cường của ông cha, còn văng vẳng lời hịch Cần Vương lôi kéo kháng Pháp : Qua hoàng thành cha ông gọi tên tôi ù ù trong họng súng thần công / Hịch Cần Vương tưởng còn vang qua chín cửa. Lịch sử Huế, văn hóa truyền thống Huế thấm sâu vào tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm. Từ nhìn nhận lịch sử dân tộc, thơ Nguyễn Khoa Điềm trở lại với hiện tại của Đất nước và nhân dân trong thời đại chống Mỹ. Trong hơi thở quay quồng, dồn dập của thời đại chống Mỹ, Huế đã đứng dậy đem cả lịch sử dân tộc xuống đường để tranh đấu. Sức trăm năm nay chuyển xuống lòng đường / Cả ngoại ô làm chiến luỹ sông Hương ( Đất ngoại ô ). Gương mặt cổ kính của Cố đô đã nhường chỗ cho khuôn mặt thời đại ngập tràn khí thế hào hùng, bởi Trường thành cổ ta làm trường thành trẻ / Sông lặng im ta đổ sóng mặt đường ( Mặt đường khát vọng ), bởi sức sống bất diệt và mãnh liệt của Huế đang trỗi dậy làm thành phố hồi sinh trên khắp mặt đường. Trong không khí sục sôi của những ngày xuống đường chống Mỹ, sức mạnh của lòng yêu nước không chỉ dâng trào ở thế hệ học viên, sinh viên mà còn ở mọi những tầng lớp : Những người thợ một đời cầm gang sắt / Những mẹ nghèo buôn thúng bán bưng / Những nông dân bị cướp ruộng mất làng / Những tri thức đau một đời chữ nghĩa / Em bé đánh giày, bậc tu hành cứu khổ … Nhân dân còn là những người mẹ, người cha, người em, bạn hữu, chiến sỹ ở mọi nơi, mọi vùng trên mặt trận chống Mỹ .. Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một ” Hơi ấm ổ rơm ” hay hình tượng ” Tre Nước Ta “, còn Thanh Thảo trong trường ca ” Những người đi tới biển ” đã viết lên những lời ca xúc động nhất về nhân dân : Và cứ thế nhân dân thường ít nói Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi Hơn cả những ngôi sao 5 cánh cô độc giữa trời ” Đất Nước ” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, không riêng gì là chiều rộng của khoảng trống địa lí mà nó còn là chiều dài lịch sử vẻ vang của một nền văn hoá đa dạng và phong phú, truyền kiếp đầy nhân hậu với cả một truyền thống lịch sử hào hùng mang truyền thống riêng của dân tộc bản địa Việt. Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng lên tư tưởng : Đất nước của nhân dân bằng vật liệu Đất nước của ca dao thần thoại cổ xưa. Rõ ràng tư tưởng trên đã thật sự vang lên bằng lời nói thẩm mỹ và nghệ thuật của thơ. Tiếng nói ấy rất độc lạ, nó là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca chống Mỹ, biểu lộ tâm hồn xúc cảm của thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa truyền thống dân tộc bản địa. Tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên bởi giá trị của nó, bởi nghĩa vụ và trách nhiệm ” hóa thân cho dáng hình xứ sở ” là yếu tố muôn đời của thơ ca và đời sống. Đây chính là thành công xuất sắc đáng kể của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với hình tượng Đất Nước độc đáo mang dấu ấn riêng, Nguyễn Khoa Điềm còn sử dụng hình tượng áo trắng – mặt đường để tái hiện quy trình xuống đường tranh đấu của trào lưu học viên, sinh viên thành phố miền Nam những năm chống Mỹ. Chính hình tượng áo trắng và mặt đường nó đã khu biệt Nguyễn Khoa Điềm với nhiều tác giả khác cùng thời :
Em đi cùng anh ra mặt đường
Đại lộ hai hàng cửa mở
Áo trắng hiện lên từ mỗi căn nhà
Rất tươi, rất khoẻ
Như những cánh chim câu thành phố
Bay ra…
Tuổi trẻ thành phố
Bay lên bằng tiếng hát…
Ta ra trận bằng màu áo trắng…
Để lại đằng sau
Những hàng cây nghiêng dáng đợi chờ
Để lại sách và vở
Những nẻo đường nho nhỏ
Quen đi ngày cô đơn
Ta đổ trăm chiều đại lộ
Ta gọi tên nhau trên khoảng lớn
Thành phố xuống đường…
Mặt đường
Đón những bàn chân bước mạnh
Đâu rồi những bước chân quen
Những bước đi trường nhảy trong mỗi bước
Những bước thầm thì, mải miết tình yêu
Những bước băn khoăn gót chạm không đều
Những bước chân nghiêng đầu ngón
Bước mùa hè xao lên bóng nắng
Bước mùa đông len lỏi lá vàng quay
Một lối tựu trường, một ngã chia tay
Một mẩu thuốc rơi. Tiếng hát thầm quãng vắng
Mặt đường giữ trong nắng mưa thầm lặng
Cả chiếc thước học trò gạt rào sắt sơn xanh
Bao năm rồi còn để tiếng lanh canh…
Đó là tiếng nói của những học sinh, sinh viên miền Nam trong quá trình nhận đường về với nhân dân, với dân tộc. Quá trình nhận thức ấy quả không đơn giản. Sống trong thành phố bị kẻ thù chiếm đóng, cách mạng đối với họ thật xa lạ. Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh họ, và nhà thơ hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam để cất lên tiếng nói của chính họ. Trong thành phố bị giặc chiếm đóng, tuổi trẻ phải hứng chịu bao bất trắc tai hoạ đang rình rập bủa vây. Để đẩy dân tộc Việt Nam vào thời kì đồ đá, cam chịu làm nô lệ, Mỹ – Nguỵ dùng mọi thủ đoạn tàn bạo để bắt lính, để lùa những chàng trai sức vóc căng tràn ra trận làm bia đỡ đạn. Không thể cầm súng bắn vào đồng bào, họ trốn tránh ra trận bằng con đường tiêu cực: tự huỷ hoại thân mình. Nguyễn Khoa Điềm đã nhập thân vào lớp người này để thấm thía tận cùng nỗi tuyệt vọng, bất lực của tuổi trẻ trong hiện trạng đau thương ấy: Hai lăm năm qua chưa một thời trai trẻ? Phải chứng kiến cảnh lam lũ của mẹ cha bị bóc lột đến sức tàn lực kiệt, cảnh em đi trường cho Mỹ vuốt má, tuổi trẻ uất ức căm hận nhưng đành bất lực bởi ra đường bị bắt lính ngay. Không chỉ đau đớn về tinh thần, mà những chàng trai ấy phải huỷ hoại cơ thể mình để trốn lính, phải sống chui lủi ở những nơi tăm tối, phải đeo gương cho cận thị suốt đời, nhịn đói, thức đêm, ăn tỏi cho tim rung, hút thuốc nhiều cho phổi ám, phải ngốn đi-a-mốc, uống nhị thiên đường…Tuổi trẻ như cây xanh căng tràn nhựa sống bị đốn gãy giữa chừng. Héo khô đi những đường gân, bắp thịt, những đôi mắt trong và những nụ cười hồng, họ đã tự biến mình thành những cái bóng lay lắt vật vờ như cỏ lác đầu sông. Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên tiếng nói cảnh tỉnh hướng đi lầm lạc này. Đó là tiếng nói của lý tưởng tiến bộ, của nhân dân thấu tình đạt lý nhưng được cất lên từ người trong cuộc nên nó có ý nghĩa như một sự thức tỉnh những tà áo trắng : Có ngờ đâu ta không cầm súng giết người Ta lại giết chính ta. Những câu hỏi tu từ Đất nước mai sau có tha thứ ta không? / Ta đau buồn Đất nước hiểu ta không? vừa khẳng định sự ân hận của những người lạc lối vừa là câu trả lời của nhà thơ: Nhân dân đất nước hiểu hoàn cảnh đau khổ, hiểu tâm trạng tủi nhục bất lực của tuổi trẻ thành thị miền Nam dưới chế độ Mỹ – Nguỵ. Bằng một giọng thơ không khoa trương, bằng tất cả lòng chân thành của một người con gắn bó với từng m2 đường phố, từng hàng cây lớp học thân quen, nhà thơ đã kêu gọi thế hệ mình xuống đường tranh đấu.
Còn cả đấy những mùa tranh đấu trước
Khẩu hiệu xuống đường vẫn trắng mặt đường xa….
Như nhắc nhở và như thách thức
Bước chân, bước chân, chúng nó, chúng ta!
Còn cả đấy cái âm vang đập cửa
Giải phóng quân tràn bốn mặt thành
Mùa xuân gọi những mùa xuân lịch sử
Ôi bước chân, bước chân chúng ta!…
Mặt đường gọi: hãy giằng ngay sự sống
Nhanh chân bước, bước chân chúng ta!…
Ôi mặt đường
Dẫu đêm đêm xích xe tăng rung chuyển
Máu chúng ta mỗi mùa hè lại đổ
Ta vẫn con thét lên:
Độc lập! Hoà bình!
Trong dùi cui và dưới bụi diêm sinh
Những mặt đường
Do chúng ta đắp nên
Phải đưa ta đến tháng ngày tươi đẹp
Đưa ta đi tìm chân lý
Đưa anh đi tìm em
Đưa ta đi đuổi Mỹ
Lật đổ bầy Việt gian
Đưa cuộc đời đi từ bình minh đến hoáng hôn
Từ mái nhà trở về mái nhà
Biết bao tin tưởng
Biết bao tự hào
Rằng chúng ta là người chiến thắng
Mặt đường đưa ta về ngày hội lớn
Độc lập, Hoà bình, Thống nhất Bắc Nam…
Anh em ơi
Xuống đường!
Giữa anh – em
Đang đi vào trận đánh
Mặt đường – Mặt đường
Chúng ta đứng lên giữa sào huyệt quân thù
Hiên ngang, kiêu hãnh
Trẻ trung, trong sáng
Vì hôm nay
Với tất cả trái tim đầy
Ta ra trận bằng màu áo trắng..
Nguyễn Khoa Điềm đã phát minh sáng tạo nên những hình ảnh thơ bay bổng, khoẻ khoắn tươi tắn. Áo trắng – mặt đường là hình tượng kép của cuộc đấu tranh. Vũ khí của họ không phải là súng đạn mà là tuổi trẻ, là sức mạnh của lẽ phải. Mặt đường là mặt trận, áo trắng sinh viên hoà vào dòng thác nhân dân đấu tranh trực diện với quân địch. Nếu như vùng thẩm mỹ và nghệ thuật của Phạm Tiến Duật là Trường Sơn và những người lính lái xe, thì với Nguyễn Khoa Điềm đó là màu áo trắng tràn ngập mặt đường của trào lưu học viên, sinh viên những năm chống Mỹ. Đây cũng là nét riêng trong phong cách Nguyễn Khoa Điềm.
Hãy xuống đường để nhìn thấy khuôn mặt anh chị em ta!
Ôi khuôn mặt được đúc từ chân lý
Từ Việt Nam, từ con đường đánh Mỹ
Hôm nay rạng rỡ, tự hào!
Hãy xuống đường để nhìn thấy khuôn mặt anh chị em ta!
Kẻ thù kia và đây, đồng đội
Tàn bạo kia, đây chính nghĩa là mình
Cái đích một đời, cái nghĩa hy sinh
Lẽ sống lớn lao, tình yêu cháy bỏng
Phút này đây đồng nghĩa cuộc đời mình
Ta vụt lên lên trong nhịp bước tuần hành
Ngực trải rộng chứa cả tầm biểu ngữ
Trường thành cổ, ta làm trường thành trẻ
Sông lặng im, ta đổ sóng mặt đường
Ta không còn là ta của đau thương
Ta là quê hương, ta là sức mạnh
Áo ta trắng và hồn ta đầy ánh sáng
Thành phố hồi sinh trên khắp mặt đường
Người xô cửa nhập với người, tiến bước
Những người thợ một đời cần gang sắt
Những mẹ nghèo buôn thúng ban lưng
Những nông dân bị cướp ruộng, mất làng
Những trí thức đau một thời chữ nghĩa
Em bé đánh giày, bậc tu hành cứu khổ
Để xuống đường chung một mạch tâm tư…
Ôi ta hát chào phố phường đứng dậy
Đòi màu xanh trả lại cho rừng
Đòi nụ cười cho những lứa yêu thương
Đòi cơm ăn trả về em nhỏ
Đòi chủ quyền trả về xứ sở
Đòi đời ta trả về quê hương…
Ta quỳ xuống đất đai
Ta hát với đất dày
Nào anh chị em ơi, ta hát
Ta là bồ câu trắng
Ta là đoá hướng dương
Ta là vừng mây ấm
Ta là người biết chết cho quê hương…
Ôi những bước Tự do chuyển động phố phường
Đại lộ nghiêng đi làm thác đổ
Đội ngũ tiến lên! Tiến lên đội ngũ!
Mặt đường là mặt người, mặt đường là thanh niên…
Máu đổ rồi! Máu học sinh sinh viên
Máu đỏ rực trên nền áo trắng
Hãy nâng máu ta lên làm ngọn cờ hồng
Trên cao điểm gian truân màu giữ nước!
Ôi tuổi trẻ có gì cao quý nhất
Bằng hôm nay ta hiến máu xương mình
3.3.3. Cái tôi thưởng thức của một thế hệ. Hòa cùng thế hệ thơ trẻ những năm chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là một giọng điệu riêng. Vẫn nằm trong ý thức sử thi, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm khác với nhiều nhà thơ cùng thời như Phạm Tiến Duật gắn với Trường Sơn và những cô người trẻ tuổi xung phong, Ngô Văn Phú gắn với làng quê, thôn ổ … Người ta nhận ra chân dung Nguyễn Khoa Điềm qua làn sóng đấu tranh kinh hoàng của học viên, sinh viên thành thị miền Nam. Cái tôi trữ tình sử thi một mặt ca tụng quốc gia hào hùng trong máu lửa cuộc chiến tranh, mặt khác ” cái tôi ” chuyển hoá sang dạng thức cái tôi thế hệ, để ngợi ca niềm tin, sức sống của khối tuổi trẻ, lòng nhiệt huyết, yêu lý tưởng của họ trong đấu tranh trực diện với quân địch : Ôi những bước tự do hoạt động phố phường Đại lộ nghiêng đi làm thác đổ Đội ngũ tiến lên, tiến lên là đội ngũ Mặt đường là mặt người, mặt đường là người trẻ tuổi Trong những năm chống Mỹ, cái tôi thế hệ từng hiện hữu như một chủ thể trữ tình có ý nghĩa nhân danh. Các nhà thơ cùng thời cũng đã khắc hoạ chân dung thế hệ mang tầm vóc một tập hợp lịch sử vẻ vang đứng lên đấu tranh : Thế hệ chúng con đi như gió thổi / Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời ( Trần Mạnh Hảo ). Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình / ( Nhưng tuổi 20 làm thế nào không tiếc ) / Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc ( Thanh Thảo ). Cảm thức về thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa đằm thắm vừa thâm thúy. Mỗi lời thơ như một lời giục giã thiết tha, lời giãi bày chân thực, và là sự khẳng định chắc chắn lý tưởng chắc như đinh. Cảm thức về thế hệ trẻ được Nguyễn Khoa Điềm trình diễn theo lô gíc của sự thưởng thức đời sống : từ nhận thức về nhân dân quốc gia, về khuôn mặt quân địch đến sự tự ý thức và sau cuối đứng lên hủy hoại quân địch. Sống vì nhân dân, vì Cách mạng so với thế hệ trẻ là đi từ cái riêng đến cái chung to lớn, dẫn đến hành vi tất yếu của họ : Hãy nâng máu ta lên thành ngọn cờ hồng Trên cao điểm gian nan mùa giữ nước Ôi tuổi trẻ có gì cao quý nhất Bằng thời điểm ngày hôm nay ta hiến máu xương mình Những âm thanh như lớp sóng đi vòng Nghe và nói, và nghe rạo rực Như nước mắt nhìn vào nước mắt Như tình yêu nồng cháy với tình yêu.
Bằng việc làm giàu ý nghĩa này, những trí trức trẻ thành phố đã dựng lên những vũ đài chính trị, tập hợp và truyền bá lý tưởng cách mạng đến với quần chúng lao khổ, đấu tranh với kẻ thù bằng sức mạnh trí thức, văn hoá, lẽ phải và chính nghĩa. Phải đổ máu và nước mắt, phải trả giá bằng những lầm lạc ban đầu,phải trải nghiệm qua đấu tranh trực diện với kẻ thù, tuổi trẻ thành thị đã đến được với Mặt đường khát vọng, hòa với nhân dân cùng cả nước lên đường. Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ gắn với chiến trường nên sự chiếm lĩnh và thể hiện đời sống có sự suy tư trải nghiệm của những người trong cuộc. Cái tôi trữ tình trong thơ có điều kiện tự bộc lộ mình, đại diện cho thế hệ mình – thế hệ những người trẻ tuổi đang tôi luyện trong ngọn lửa chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách và tự nguyện đem xương máu của mình bảo vệ quê hương, đất nước. Từ cái tôi trữ tình sử thi mang tinh thần thời đại đến cái tôi thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự biểu hiện khí phách hùng tráng không chỉ của cái tôi nhà thơ mà của cả thế hệ tuổi trẻ cùng lứa: Cái tôi thế hệ xuống đường của tuổi trẻ sinh viên – đó là sự đóng góp độc đáo làm nên phong cách Nguyễn Khoa Điềm.
Là một nhà thơ, một người lính trong ” lứa cầm súng suốt một thời trai trẻ ” ( Nguyễn Duy ), ” lứa tuổi hai mươi, ba mươi trùng điệp áo lính ” ( Thanh Thảo ), Nguyễn Khoa Điềm có một tâm hồn rất trẻ, xao động biết bao xúc cảm Tình đồng đội, chiến sỹ là tình cảm thân mật nhất của những người lính trongnhững năm tháng ở mặt trận. Những đêm Trường Sơn, phủ bọc trong bóng tối của rừng đại ngàn, thời hạn như ngắn lại khi những người lính quây quần bên nhà bếp lửa. Bên ánh sáng của những ngọn lửa hồn nhiên reo cười nhảy múa, tình đồng đội càng thân thiện và gắn bó. Xích lại gần nhau và chỉ nhìn lửa thôi, nhà thơ chiến sỹ đã thấy tin yêu thắm thiết bởi ở đó : Cháy cùng ý nghĩ / và toả hồng trên mỗi trán mê hồn. Ngọn lửa hồng trong đêm rừng Trường Sơn đã thắp sáng ngọn lửa lý tưởng trong ý nghĩ, trong tâm hồn người lính. Hơi ấm của nhà bếp lửa rừng xua đi cái âm u của rừng già. Chia sẻ với nhau từ niềm vui, nỗi nhớ đến những điều đơn giản và giản dị – củ sắn, ngọn rau, điếu thuốc, tình đồng đội đã đi qua những năm tháng Trường Sơn : Bỗng thấy thương nhau hơn khi vai bạn sát vai mình Bẻ củ sắn chia đôi điều giản dị và đơn giản Bếp lửa soi một dư vang bền chắc Ôi Trường Sơn đốt lửa mấy năm trời Thơ Nguyễn Khoa Điềm viết trong cuộc chiến tranh hình ảnh bè bạn chiến sỹ rất đỗi thiêng liêng cảm động. Đó cũng chính là sức mạnh của người lính chiến thắng sự bạo tàn của bom đạn quân địch hướng về ngày mai tươi đẹp. Cái tôi trữ tình trong thơ cuộc chiến tranh của Nguyễn Khoa Điềm là sự quy tụ của cái tôi chiến sỹ, cái tôi văn hoá và cái tôi thi sĩ. Đây là những yếu tố nền tảng tạo nên sự đa dạng thức và biến hóa của cái tôi trữ tình trong thơ. Với tư thế cái tôi chiến sỹ, cái tôi trữ tình sử thi cất lên tiếng nói vang vọng của một chân lý vĩnh hằng qua hình tượng người lính ; cái tôi trữ tình thế hệ lại mang một tiếng nói riêng của tuổi trẻ miền Nam trong hành trình dài tìm về dân tộc bản địa. Cái tôi văn hóa truyền thống giúp thơ lấp lánh lung linh ánh sáng trí tuệ, tri thức. Đặc biệt cảm hứng văn hóa truyền thống – lịch sử vẻ vang trước mọi hiện tượng kỳ lạ của đời sống đã tạo nên vẻ đẹp riêng của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Người đọc còn lưu mãi ấn tượng về một con người thi sĩ đã cảm nhận được những rung động lớn lao của thời đại và cả những rung động thầm kín, riêng tư của lòng người và cuộc sống. Ba yếu tố trên đã tạo nên tính thống nhất trong phong cách và hiện hữu trong cả thơ viết sau cuộc chiến tranh của Nguyễn Khoa Điềm.
3.3.4 Giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. “Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc(…) Giọng điệu trong tác phẩm gắn với giọng ” trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu
a. Giọng chính luận. Trong lịch sử dân tộc dân tộc bản địa mỗi khi quốc gia có ngoại xâm thì đời sống, số phận mỗi người dân tất yếu phải gắn chặt với vận mệnh của quốc gia. Trong thực trạng và khí quyển niềm tin ấy, thơ ca không hề không trở thành tiếng nói chung của cả hội đồng, phát ngôn cho ý chí, khát vọng, tình cảm lớn lao của toàn dân tộc bản địa. Lấy điểm tựa là lịch sử vẻ vang, quốc gia, lẽ phải, chính nghĩa, những áng văn chính luận như Cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã một thời làm quân địch phải kinh hồn bạt vía. Đế quốc Mỹ xâm lược, cả dân tộc bản địa lại một lần ra trận và thơ không còn con đường nào khác ngoài con đường “ bay theo đường dân tộc bản địa đang bay ” ( Chế Lan Viên ). Như vậy thơ ca sinh ra trong thực trạng cuộc chiến tranh không ít đều có yếu tố chính luận. Một đặc thù điển hình nổi bật của thơ chống Mỹ là tăng cường tính chính luận, chất suy tưởng triết lý và ngày càng tăng vật liệu hiện thực đời sống. Với đặc thù này, thơ chống Mỹ đã phân phối được nhu yếu của thời đại. “ Trong thời đại cách mạng, nội dung chính trị đã xâm nhập và chi phối can đảm và mạnh mẽ mọi nghành nghề dịch vụ của đời sống kểcả thơ. Nhằm đề cập và giải đáp những yếu tố mang ý nghĩa chính trị trong cuộcsống, thơ tìm đến khuynh hướng trữ tình chính trị với sự tăng cường yếu tố chínhluận. Bám sát thời sự diễn biến của cuộc chiến đấu, kịp thời đề cập và giải đáp những yếu tố hệ trọng về tư tưởng chính trị, chứng minh và khẳng định đường lối và quyết tâm chiến đấu của dân tộc bản địa, lên án quân địch trong những thủ đoạn thủ đoạn và tội ác của chúng … ” Nguyễn Khoa Điềm có một trí tuệ tinh tế, vốn kỹ năng và kiến thức sách vở đa dạng chủng loại, sự thưởng thức qua thử thách cuộc chiến tranh và một “ tâm hồn thơ trẻ nồng cháy chất lý tưởng ”. Với phẩm chất này, giọng điệu chính luận của thơ Nguyễn Khoa Điềm không gượng ép, lên gân, … mà chan hoà đằm thắm trong hình ảnh và ngôn từ thơ giàu xúc cảm, nhiệt huyết và ánh sáng lý tưởng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đằm sâu và ngân vang trong lòng người đọc là cho nên vì thế. Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ có tài đưa đời sống chính trị vào trong thơ một cách tự nhiên. Giọng thơ khách quan hờ hững mang khẩu khí trần thuật ngắn gọn nhằm mục đích truyền đạt đến người đọc lượng thông tin nhiều nhất, nhanh nhất. Chúng kéo vào hăm bốn xe Chém mặt đồng ta bốn mươi tám lằn sẹo dọc ( Lửa và máu ) Để trình diện bộ mặt dã man của quân địch, Nguyễn Khoa Điềm liệt kê hàng loạt các tội ác phi nhân tính của chúng : Tao đánh cho mày … / Tao moi gan mày … / Tao móc mắt mày … Có cả những trang thơ nhìn xuyên lịch sử dân tộc quả đât để tái hiện hàng loạt tội ác hung tàn và văn minh của giặc Mỹ. Từ ngữ được cô đúc lại, tiết kiệm ngân sách và chi phí tối đa mang văn phong báo chí truyền thông, nhưng ẩn sau mặt phẳng câu chữ là lòng căm thù đang dâng lên mãnh liệt. Khởi nguồn từ những tâm lý nung nấu về những yếu tố lớn lao của thời đại, tư duy thơ Nguyễn Khoa Điềm hoạt động theo mạch lô gíc của quy luật đời sống tất yếu nhằm mục đích khẳng định chắc chắn những chân lí lớn lao của thời đại. Đặc điểm này chi phối giọng điệu lập luận và cấu trúc những tầng lớp, chương đoạn của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trường ca Mặt đường khát vọng mang chủ đề : Quá trình nhận thức của tuổi trẻ vùng đô thị bị tạm chiếm miền Nam về những dịch chuyển thời đại, về quân địch, về quốc gia, về nghĩa vụ và trách nhiệm của người trẻ tuổi để hướng tới Mặt đường khát vọng – con đường cách mạng, con đường chiến đấu mà cả dân tộc bản địa đã lựa chọn. Chủ đề lớn này bao trùm hàng loạt tác phẩm được Nguyễn Khoa Điềm tiến hành ra 9 chương : Lời chào, Báo động, Giặc Mỹ, Tuổi trẻ không yên, Đất Nước, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão. Thế liên hoàn này là tất yếu để chuyển tải một dung tích lớn của cảm hứng tâm lý đang dâng trào. Trong tâm hồn nhà thơ, hình tượng xúc cảm dâng lên tầng tầng, lớp lớp gối nhau như những đợt sóng xô : từ nhận thức về sự trưởng thành của tuổi trẻ, những do dự trăn trở trong việc lựa chọn một hướng đi, lòng căm thù giặc và niềm tự hào về giang sơn quốc gia, để đến với hành vi đứng lên chiến đấu chống quân địch. Dòng xúc cảm cuồn cuộn này yên cầu những liên tưởng, những tâm lý, nghị luận để biện luận, để phản bác rồi tìm ra thái độ đúng, tin yêu và có nghĩa vụ và trách nhiệm với cuộc sống. Để lí tưởng tân tiến thấm vào những tâm hồn tuổi trẻ, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa vào thơ một cuộc đối thoại thảo ngay. Giọng thơ chuyển hoá với những lập luận mạng lưới hệ thống, logic, thuyết phục để cảnh tỉnh những tâm hồn lầm đường lạc lối trở lại con đường chính nghĩa của nhân dân, quốc gia. Chính vì thế Mặt đường khát vọng không phải là một tác phẩm tuyên truyền chính trị mà nhà thơ đã hóa thân vào tuổi trẻ, đối thoại với tuổi trẻ bằng sự chân tình của lời tâm giao. Âm hưởng của trường ca là chính luận – trữ tình, từ hình tượng lớn đến hình tượng bộ phận đều thấm nhuần lí lẽ và chính lý lẽ đã liên kết các hình tượng với nhau thành một chỉnh thể. Mặt đường khát vọng là trường ca tiêu biểu vượt trội cho hiện tượng kỳ lạ này. Nhập vai tuổi trẻ thành thị miền Nam, cái tôi trữ tình cất lên giọng cật vấn đối thoại dồn dập : – Những bờ bãi nào không dành cho cò nữa Những luỹ tre nào bom đã đến khai quang ? – Có gì đâu chúng con nhìn lên map Nước Ta Sao Tổ quốc chỉ còn nửa nước ? – Sao con học để làm bầy nô lệ Súng Mỹ ngày hôm nay thành giáo cụ học đường ? Giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm rực rỡ còn nhờ những suy tưởng. Bởi vậy khi kiến thiết xây dựng hình tượng quốc gia, thơ Nguyễn Khoa Điềm mang giọng chính luận sang chảnh và hùng tráng : Ôi Đất Nước đầu mũi dao Đất Nước đầu mũi tên Đất Nước đầu bước chân Đất Nước đầu tiếng chiêng Đất Nước là ngọn lửa Đất Nước tràn trên từng đỉnh núi Đất Nước thiêng liêng … Sự láy lại và tăng cường điệp từ Đất Nước, cùng với cấu trúc thơ dài ngắn làm giọng thơ chất chứa xúc cảm, vừa dồn nén, vừa đồng vọng thức tỉnh trí tuệ và giục giã tâm hồn người đọc. Hướng về cuộc kháng chiến của toàn dân tộc bản địa, thơ không hề thiếu giọng kêugọi, cổ vũ ngợi ca. Là lời nói tình cảm trực tiếp hướng tới phần đông quần chúng, là bài ca đoàn kết giục giã đấu tranh, giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi kéo tha thiết. – Hỡi tuổi trẻ như một rừng cây lớn – Em ơi em quốc gia là máu xương của mình. – Em ơi em / hãy nhìn rất xa / vào bốn nghìn năm quốc gia – Mẹ Nước Ta ơi – Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm – Anh em ơi / xuống đường – Em ơi em, đừng quên, đừng quên Chọn cho mình vị trí sử thi, ở tầm cao nhất của lịch sử dân tộc và thời đại thơ Nguyễn Khoa Điềm còn mang giọng quyền uy. Những mệnh lệnh thức Open chi chít : – Hãy đến đây làm người lính trung kiên – Hãy đứng dậy và giơ cao ngọn đuốc – Hãy nhận mặt quân địch và xuất kích ngày hôm nay – Hãy ném trả ngay vào đầu bọn Mỹ – Hãy cùng chúng tôi đứng lại trước bờ chân lí – Hãy xuống đường để thấy anh chị em ta – Hãy nâng máu ta lên làm ngọn cờ hồng – Hãy cùng chúng tôi sống trọn hiếu trung Chiến tranh là ngã xuống, quyết tử mất mát, nhưng không hề uỷ mị yếu mềm, vì thế giọng sáng sủa, tin yêu là một cung bậc trong giọng chính luận thơ Nguyễn Khoa Điềm : – Có khi nào như buổi sáng xuân nay Chúng ta bay nghìn độ lửa ta bay ( Đất ngoại ô ) – Một mùa xuân tiếng đại bác rầm rầm Bản hành khúc những quân đoàn giải phóng ( Con gà đất, cây kèn và khẩu súng )
Trong nền thơ chống Mỹ, chất chính luận đậm nét ở Chế Lan Viên và một số ít nhà thơ khác. Nguyễn Khoa Điềm như một tiếng ca của cả nền thơ chung và nhiều lúc người ta nhận ra giọng điệu, phong cách của một hai nhà thơ khác. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm vẫn có những nét riêng trong sự tương đương trên Lever toàn thể của thơ chống Mỹ. Điều đó xuất phát từ chính tâm hồn thi sĩ của một người trong cuộc, một người trên chiến hào, một người trong điểm trung tâm giông bão của trào lưu học viên, sinh viên miền Nam Bởi thế trong thơ chống Mỹ, thơ Nguyễn Khoa Điềm phối hợp nhiều giọng điệu : sử thi và trữ tình, tráng ca và những phút sâu lắng của suy tư … Chính điều này làm thành một yếu tố độc lạ trong phong cách nhà thơ. b. Giọng trữ tình. Bản chất của thơ là giọng trữ tình bởi đó là lời nói của tình cảm, cảm hứng. Khi viết về những yếu tố trọng đại của dân tộc bản địa, thơ Nguyễn Khoa Điềm có giọng chính luận cao, vang, thuyết phục nhưng khi viết về những nỗi niềm nhạy cảm của tâm hồn con người : tình yêu quê nhà quốc gia, tình yêu đôi lứa, tình đồng đội …, giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trầm xuống thiết tha sâu lắng. Tình yêu quê nhà quốc gia là một chủ đề có tính sử thi nhưng đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm đã được ” đời tư hoá “. Chương Đất Nước ( Mặt đường khát vọng ) Nguyễn Khoa Điềm biểu lộ những điều tận tâm nhất về quốc gia nhưng trong hình thức lời tâm tình của một đôi trai gái. Khi lứa đôi bên nhau thường tâm sự những điều riêng tư thầm kín nhưng chàng trai – nhân vật trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm đã nói với tình nhân về quốc gia với giọng yêu quý tha thiết : – Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm – Em ơi em / hãy nhìn xa / vào bốn nghìn năm quốc gia – Rồi mai này con ta đi xa … Giọng thơ trữ tình đằm thắm này đã làm trái tim người đọc xúc động và đồng cảm với xúc cảm của nhà thơ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm bắt rễ rất sâu vào mảnh đất văn hoá dân gian nên lời ru cũng thành giọng điệu. Tiếng ru ấy vừa là hiện thân của sự nâng niu, trân trọng, vỗ về, vừa là cách nói gián tiếp, xa xôi với người khác, lại vừa như nói với chính mình : – Ngủ ngoan AKay ơi, ngủ ngoan AKay hỡi Mẹ thương AKay, mẹ thương bộ đội ( Khúc hát ru những em bé lớn lên trên sống lưng mẹ ) Giọng thơ dịu dàng êm ả, thủ thỉ tâm tình như tấm lòng người mẹ. Mạch cảm hứng trữ tình hoạt động tạo thành một diễn biến ngầm xâu chuỗi các sự kiện và nhân vật làm cho tác phẩm trở nên thống nhất. Điều này làm cho giọng trữ tình chuyển hoá linh động với những cung bậc xúc cảm khác nhau : tâm trạng xao xuyến, bồi hồi, khi tạm biệt tuổi thơ để bước vào cuộc sống đầy thử thách : Ta lớn lên bồn chồn một sắc hồng / Phượng cứ nở hoài như đếm tuổi … ; lòng căm thù giặc khi bùng lên mãnh liệt : Ta căm giận chúng mày ngàn đời giặc Mỹ, khi lắng lại sâu thẳm thành nỗi đau nhói buốt tâm hồn : Mỗi nỗi đau từ vô tận vô cùng / Ùa vào mỗi căn nhà góc phố ; tình yêu quốc gia, yêu dân tộc bản địa tha thiết đến nghẹn ngào : Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình / Ta nghẹn ngào Đất Nước Nước Ta ơi. Khi tuổi trẻ miền Nam xuống đường đấu tranh, giọng thơ trữ tình đã bắt nhịp vào không khí thời đại trở nên hào hùng, khí thế, cuồn cuộn sức mạnh phong ba nhấn chìm quân địch : Ta vụt lớn lên trong nhịp bước tuần hành Ngực trải rộng chứa cả tầm biểu ngữ Trường thành cổ, ta làm trường thành trẻ Sông lặng im, ta đổ sóng mặt đường Như vậy giọng điệu trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ khởi phát từ trái tim giàu cảm hứng, sống hết mình với thời đại mà còn được chắt lọc từ văn hoá dân gian, văn hoá Huế nên vừa chân thực nồng nàn, vừa phóng khoáng bay bổng vừa đằm sâu và đậm đà truyền thống dân tộc bản địa. Chính luận, trữ tình, triết lí là ba cung bậc điển hình nổi bật của giọng điệu thơ Nguyễn Khoa Điềm. Không đứng riêng độc lập mà ba giọng điệu trên hoà quyện với nhau nhuần nhị. Trí tuệ trong thơ không hiện ra mệnh lệnh khô khan mà hoá thân vào hình ảnh ngôn từ thơ thấm đẫm xúc cảm từ những rung động về đời sống. Gọi phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là chính luận – trữ tình là do đó. 3.3.5. Vận dụng thuần thục vật liệu văn hoá dân tộc bản địa. Vì sao Nguyễn Khoa Điềm sử dụng vật liệu văn hoá, văn học dân gian để bộc lộ tư tưởng “ Đất Nước của nhân dân ” ?
– Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất sắc điệu, vẻ đẹp tâm hồn dân tộc và không ai khác chính nhân dân là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. VHDG là cội nguồn của văn học viết có ảnh hưởng lớn đến thơ ca Việt Nam hiện đại.
– Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu thâm thúy của một người lính đang trực tiếp thưởng thức trong cuộc đấu tranh sôi sục, kinh khủng của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của quân địch, Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn văn học dân gian, đặc biệt quan trọng là “ ca dao, thần thoại cổ xưa ” để làm bật lên tư tưởng “ Đất Nước của nhân dân ”. Kết cấu đoạn trích hướng vào vấn đáp thắc mắc : Đất nước là gì ? Đất nước của ai ? Vai trò của nhân dân với quốc gia thế nào ? Chất “ tư duy lôgic, yếu tố chính luận ” ấy dễ làm thơ mất đi chất “ tươi xanh nhựa sống ”, nhưng không ! Viết về quốc gia, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất vật liệu văn hóa truyền thống, văn học dân gian đưa vào thơ, không riêng gì ảnh hưởng tác động vào nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa so với tâm hồn người đọc. Chính cách sử dụng phát minh sáng tạo này đã tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ. – Chất liệu văn học dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được sử dung vô cùng phát minh sáng tạo. Dân tộc ta có một nền văn học dân gian phong phú và đa dạng và có truyền thống lịch sử truyền kiếp. Nền văn học ấy biểu lộ sức sống, kinh nghiệm tay nghề đấu tranh xã hội và tự nhiên, biểu lộ trí tuệ mưu trí và những những ứng xử tốt đẹp của nhân dân lao động qua hàng ngàn năm lịch sử vẻ vang. Khai thác được toàn bộ năng lượng bộc lộ và vẻ đẹp của ngôn từ thơ ca dân tộc bản địa để bộc lộ hiện thực phong phú và đa dạng của đời sống, đó là cơ sở đa phần tạo nên tính dân tộc bản địa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong chương Đất nước, Ngôn ngữ thơ được sử dụng từ vật liệu văn học dân gian với tần số lớn. Tuy nhiên vật liệu văn học dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không còn trong chính dạng bản thân của nó, một sự sao chép loại sản phẩm hội đồng mà nó đã được chuyển hóa vào lời chữ, giọng điệu, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ tạo nên truyền thống riêng trong thơ ông. Chúng ta có một kho tàng ca dao tục ngữ đậm đà phong vị trữ tình, kết tinh những tình cảm cao quý của nhân dân, những kinh nghiệm tay nghề lao động sản xuất và đấu tranh. Ca dao tục ngữ đã thấm vào Nguyễn Khoa Điềm một cách tự nhiên trong cách nhìn nhận về “ Đất nước ” – một quốc gia giàu truyền thống lịch sử văn hóa truyền thống. Dấu tích của ca dao tục ngữ liên tục được tiến hành trong mỗi câu thơ. ” Tay nâng chén muối đĩa gừng / Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau “. Lời ca dao xưa đã chuyển hóa nhuần nhị trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm : Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn, Đất nước là một cái gì đó không hề trừu tượng mà trái lại rất thân mật như hơi thở đời sống, gắn liền với những câu ca dao, dân ca duyên dáng ý nhị : Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Câu thơ trên gợi nhớ bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai ”. Không chỉ thế, những câu ca dao ca tụng tình nghĩa giữa con người : ” Cầm vàng mà lội qua sông / Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng ” được nhà thơ khai thác và biểu lộ trong những dòng thơ : Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội. Những câu truyện cổ tích như Tấm Cám, Cây Khế, truyện Trạng Quỳnh là những câu truyện dân gian mà người Việt Nam ai cũng biết đã trở thành vật liệu và chuyển hóa thành thơ : Đánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặt Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh … Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu Cây khế chua có đại bàng đến đậu Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Lịch sử quốc gia đã ghi nhận nhiều sự “ hóa thân cho dáng hình xứ sở ”. Nhiều gương dựng nước và giữ nước đã trở thành thần thoại cổ xưa, tạo một trường văn hóa truyền thống rực rỡ cho dân tộc bản địa Việt : Những đá Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những ao đầm của chân ngựa Thánh Gióng, con Rồng, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm … Sự trộn lẫn giữa các yếu tố vật chất với các giá trị văn hóa truyền thống niềm tin đã khiến cho những câu thơ đơn giản và giản dị mang vẻ đẹp lấp lánh lung linh. Nguyễn Khoa Điềm đã biết khai thác vật liệu văn học dân gian ở những câu truyện cổ tích, thần thoại cổ xưa có công dụng như việc sử dụng các điển tích, điển cố văn học nhằm mục đích làm cho ngôn từ thơ thêm cô đọng, hàm súc, tạo nên sắc tố dân gian rất riêng trong thơ ông. Trong thực trạng quốc gia có cuộc chiến tranh, thơ ca phải nhằm mục đích động viên mọi người chiến đấu. Nhà thơ đã chọ cho mình một con đường đi riêng khi chọn vật liệu từ đời sống dân gian, một đời sống vốn gắn bó thân thiện với toàn bộ người Nước Ta, để bộc lộ một hình ảnh Đất nước thân mật và giản dị và đơn giản nhất. Cha ông ta bằng sự đơn giản và giản dị đã làm nên Đất nước vẹn toàn, xinh xắn, với một ý thức dân tộc bản địa cao cảvà khát vọng duy trì truyền thống dân tộc bản địa, “ truyền giọng điệu cho con mình tập nói ”, “ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân ”, cha ông đã truyền lại cho tất cả chúng ta truyền thống lịch sử văn hóa truyền thống như ngày thời điểm ngày hôm nay. Nguyễn Khoa Điềm lựa chọn hướng sáng tác trên trong thực trạng cuộc chiến tranh cũng nhằm mục đích thức tỉnh bổn phận đó trong người trẻ tuổi đô thị miền Nam.
– Tiếp thu sáng tạo sử thi dân gian:
“ Trường ca là một tác phẩm thơ có dung tích lớn, thường có diễn biến tự sự hoặc trữ tình ”. Trường ca là một hiện tượng kỳ lạ tiêu biểu vượt trội của thời đại mang tính sử thi. Chất “ sử thi ” trong trường ca chính là sự thừa kế của thể loại sử thi dân gian. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “ sử thi ( còn gọi là anh hùng ca ) là thể loại tự sự Open rất sớm trong lịch văn học các dân tộc bản địa nhằm mục đích ca tụng sự nghiệp các anh hùng có ý nghĩa toàn dân và có ý nghĩa trọng đại so với dân tộc bản địa trong buổi bình minh lịch sử vẻ vang. Về cấu trúc sử thi là một câu truyện được kể đầu đuôi với quy mô lớn vì theo Heghen : “ nội dung và hình thức của nó thực sự là hàng loạt các ý niệm, hàng loạt thế vàcuộc sống của một dân tộc bản địa được trình diễn dưới hình thức khách quan của một biến cố thực tại ”. Cuộc kháng chiến khó khăn của dân tộc bản địa ta đã làm phát sinh biết bao bản trường ca : Bài ca chim Chơ Rao – Thu Bồn ; Ngọn giáo búp đa – Ngô Văn Phú ; Những người đi tới biển – Thanh Thảo ; Đường tới thành phố – Hữu Thỉnh … Hơn bất kỳ thể loại nào, trường ca với đặc trưng lợi thế của nó đã xuất hiện ở những nơi đầu sóng ngọn gió để kịp thời phản ánh những dịch chuyển lịch sử dân tộc, để ngợi ca cuộc chiến đấu đầy khí phách anh hùng của dân tộc bản địa ta. Hòa cùng không khí đó, trường ca “ Mặt đường khát vọng ” của Nguyễn Khoa Điềm sinh ra năm 1971 xuất bản 1974 đã được phần đông bạn đọc tiếp đón. Trường ca Mặt đường khát vọng cũng như trường ca thời kì kháng chiến chống Mỹ là trường ca trữ tình bởi nó tái hiện đời sống trong tính chủ quan của nhà thơ và quốc tế thẩm mỹ và nghệ thuật cũng được tổ chức triển khai theo nguyên tắc này. Đây là nét mới lạ của trường ca thời kì chống Mỹ khác với trường ca sử thi, trường ca tự sự trước đó. Mặt khác còn bị chi phối bởi những nhu yếu của một thể loại có cấu trúc dài hơi, nên nó phải quan tâm đến việc thiết kế xây dựng nhân vật và tuyến sự kiện. Điều này cũng tương ứng với lối tiến hành của sử thi dân gian. Để có tuyến sự kiện trước hết người ta cần tìm đến với diễn biến. Ở trường ca diễn biến không nhất thiết phải có nhiều diễn biến và hành vi mà cốt chỉ tạo ra một trường hợp thống nhất cho tác phẩm. Trong quy trình hoạt động của thể loại trường ca thì càng về sau tuyến sự kiện càng có khuynh hướng lỏng lẻo. Tuy vậy chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc. Tuyến sự kiện ở trường ca Mặt đường khát vọng có vai trò quan trọng. Ở mỗi chương của trường ca, mạng lưới hệ thống chi tiết cụ thể sự kiện được kêu gọi một cách hiệu suất cao. Ở trường ca, tuyến sự kiện khi nào cũng gắn với một mạng lưới hệ thống nhân vật. Tuy nhiên trường ca không miêu tả nhân vật với tính cách và hành vi của nhân vật như trong truyện hoặc tiểu thuyết. Trường ca chỉ quan tâm tới các nhân vật có những cụ thể và hành vi tiềm ẩn chất thơ của hiện thực. Có nhiều tuyến nhân vật trong trường ca Mặt đường khát vọng. Đó là nhân vật tập thể trong quy trình nhận thức và đấu tranh dành độc lập, nhân vật “ anh ”, “ em ” trữ tình đằm thắm trong chương “ Đất nước ” và đặc biệt quan trọng là nhân vật xưng “ ta ”, “ tôi ”. Khác với thơ trữ tình, nhân vật ở ngôi thứ nhất này ở trường ca không trình diễn cảm hứng của mình một cách tự do bởi nó bị chi phối bởi tuyến sự kiện. Một mặt nó không Open với tư cách cá thể mà với tư cách là người đại diện thay mặt cho thế hệ, cho lớp người, cho hội đồng, cho dân tộc bản địa. Mặt khác, nó còn biểu lộ công dụng thể loại là người dẫn chuyện, người gợi ý mách bảo, người cung ứng thông tin, người điều tiết phân bổ và link các sự kiện lại thành chỉnh thể. Nhân vật ở ngôi thứ nhất ấy cũng hoàn toàn có thể là chính nhà thơ tham gia, tác động ảnh hưởng vào cấu trúc tác phẩm với tư cách là nhân vật tâm trạng và nhân vật hành vi. Nhờ vậy mà nhịp điệu tăng trưởng của trường ca sôi sục, khẩn trương, hào hứng. Ở trường ca này tác giả đã hoà mình vào không khí tác phẩm, sống với những chi tiết cụ thể vấn đề và tâm lý hành vi bằng chính con người trong tác phẩm. Văn học kháng chiến đã chứng minh và khẳng định trường ca như một thể loại mới tiêu biểu vượt trội, đặc trưng của văn học tiến trình này. Trường ca Mặt đường khát vọng tuy tăng trưởng từ thơ trữ tình nhưng nó ảnh hưởng tác động rất rõ nét của sử thi dân gian về dung tích, đặc thù anh hùng ca chủ yếu, sự kiện dồi dào, nhân vật đại diện thay mặt cho tập thể. Nguyễn Khoa Điềm đã biết thừa kế tăng trưởng cái đã có để tương thích với hiện thực và nghệ thuật và thẩm mỹ thời đại. Nhờ sự thể hiện đậm nét cái chủ quan và năng lực bộc lộ mang sắc tố riêng mà trường ca của Nguyễn Khoa Điềm có những nét mới lạ so với bất kỳ một trường ca nào khác cùng thời. 4. Kết luận Thơ ca phải thực sự dựa vào sự giàu sang của tâm hồn, bản lĩnh cá thể. Nguyễn Khoa Điềm đã từng bày tỏ những tâm lý về thơ : “ Một cách nhìn đời sống đúng hướng và tin yêu sáng sủa, một tâm hồn giàu cảm hứng để đồng cảm, một trí tưởng tượng đa dạng chủng loại luôn luôn mới lạ phát minh sáng tạo là những tác nhân có ý nghĩa quyết định hành động so với một tâm hồn thơ. Khi những năng lượng ý thức ấy lại gắn bó với một cuộc sống thực có nhiều mối liên hệ xã hội nhiều mẫu mã luôn được bối đắp từ đời sống xung quanh, đấy là điều kiện kèm theo để Open một kĩ năng thơ ” Soi chiếu quan điểm trên vào đường đời và đường thơ của Nguyễn Khoa Điềm, hoàn toàn có thể chứng minh và khẳng định một điều : Nguyễn Khoa Điềm là một kĩ năng thơ thực sự. Một kĩ năng khi nào cũng đi liền với một phong cách phát minh sáng tạo. Ở thời kì cuộc chiến tranh, sống trực tiếp giữa lòng cuộc chiến đấu của nhân dân. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã biểu lộ cảm động những xúc cảm và ý thức về dân tộc bản địa, thời đại trong tâm hồn những con người yêu nước. Thời đại chống Mỹ đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm không phải bằng sự miêu tả trực tiếp mà khúc xạ qua nhận thức và thưởng thức máu thịt của riêng nhà thơ nên đã được nâng lên tầm cao và chiều sâu riêng. Để khẳng định chắc chắn chân lí vĩnh hằng của dân tộc bản địa : lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí chiến đấu quật cường … Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng linh động trong thơ sự tinh tế của một trí tuệ ưa khái quát triết lý, vốn kỹ năng và kiến thức phong phú và đa dạng về lịch sử dân tộc – văn hóa truyền thống và sự thưởng thức của bản thân. Bởi vậy, vừa hòa chung với tiếng thơ chống Mỹ của cả nước, của thế hệ trẻ, thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một phong cách riêng. Trên con đường thơ của mình, thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn có những biến đổi mới mẻ tương thích với từng thực trạng sáng tác. Trong cuộc chiến tranh, tâm hồn Nguyễn Khoa Điềm cháy bỏng những cảm hứng lớn lao về Nhân dân – Đất nước. Là một nhà thơ trẻ tự nguyện tham gia và được thử thách trong cuộc chiến tranh, thơ Nguyễn Khoa Điềm cất lên lời nói của thế hệ mình về ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm trước vận mệnh quốc gia. “ Thơ là một cách chuyền lửa cho muôn đời sau ” ( Chế Lan Viên ). Không sáng rực, chói lọi nhưng ngọn lửa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự ấm cúng của những tình cảm đẹp về quốc gia và con người đã sưởi ấm cho cả một thế hệ thời ấy và có lẽ rằng cả những thế hệ tương lai. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ẩn sau mặt phẳng câu chữ là một khuôn mặt thi sĩ, một chân dung tâm hồn giàu xúc cảm, nhạy cảm với những vang động lớn lao cuả thời đại và những rung động tinh xảo của lòng người. Những rung động này đã tạo nên chất thơ sâu lắng nồng nàn, tạo nên sự đồng cảm giữa những tâm hồn, giữa tác giả và fan hâm mộ, như một nét phong cách định hình rất sớm và ngày càng rõ nét của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Gia Bình, tháng 9/2015
Tổ Ngữ văn
Tác giả : Quản trị viên
Source: https://thoitrangredep.vn
Category: Phong Cách