Phong cách Hán Việt hỗn hợp trong văn học trung đại Việt Nam

Phong cách Hán Việt hỗn hợp trong văn chương trung đại Việt Nam

Trần Đình Sử

Mỗi thời đại văn học thường có một phong cách phân biệt với thời đại văn học khác. Văn học trung đại Nước Ta la một thời đại như thế và nó có nét phong cách phân biệt rõ ràng với văn học văn minh. Đó là phong cách Hán Việt hỗn hợp của nó. Cách nói này tôi mượn của ông Ưu Thiên Bùi Kỉ ( 1888 – 1960 ) trong sách Quốc văn đơn cử ( Tân Việt, 1932, tái bản năm 1950 ). Trong thiên thứ ba của sách này ông đã bàn đến “ Hán Việt hợp dụng thể ”. Chữ “ thể ” trong tiếng Hán cổ còn có nghĩa là phong cách. Người ta nói “ văn thể ” tức là phong cách thể loại. Lại nói “ ngữ thể ” tức là phong cách ngôn từ. Từ đó tôi dịch chữ của Bùi Kỉ thành phong cách. Trong bài của mình ông định nghĩa như sau : “ Phàm trong một bài văn mà dùng cả lối ta và lối Tàu thì gọi là Hán Việt hợp dụng thể ”. ( tr. 133 ). Ông dẫn chứng lối lục bát và lối từ khúc, lối tuy nhiên thất với lối biền ngẫu, cổ thơ, các điệu hát thiên thai, thét nhạc, kịch, tuồng … trong đó văn đều viết theo lối biền ngẫu. Kiến giải của ông thật mê hoặc, nhưng ông chưa nhìn rộng ra toàn thể văn học trung đại, do đó cái phong cách mà ông nói chỉ số lượng giới hạn trong một khoanh vùng phạm vi hẹp. Nay tôi lan rộng ra ra và trình diễn phong cách Hán Việt hỗn hợp như sau .

Sự tồn tại dòng văn học chữ Hán rồi sau đó có chữ Nôm và dòng văn học chữ Nôm không hoàn toàn tách bạch nhau mà cộng sinh, liên kết nhau.

Trước hết nói về văn học chữ Hán. Chữ Hán ở Nước Ta tuy có nguồn gốc TRung Quốc nhưng nó là chữ Hán Việt, nghĩa là cùng một chữ Hán đó, nhưng lại đọc theo cách Việt, và người Việt chỉ biết có một cách đọc đó, không ai đọc theo kiểu Tàu. Sự độc lạ này bắt nguồn từ hai mạng lưới hệ thống ngữ âm tiếng Hán và tiếng Việt trọn vẹn khác nhau. Hệ thống phụ âm và nguyên âm trọn vẹn khác nhau. Hệ thống thanh điệu khác nhau. Ví dụ ta đọc xuân thì họ đọc “ chun ”, ta đọc vũ thì họ đọc “ yu ”, ta đọc báo thì họ đọc “ pao ”, ta đọc Đường thì họ đọc “ Tang ”. Sự độc lạ cách đọc và ngữ âm cho thấy chữ Hán Việt Nam là một hiện tượng kỳ lạ Nước Ta, một sáng tác Hán Việt, không hề giống hệt với chữ Hán nói chung. Như thế văn học chữ Hán Việt Nam cũng mang phong cách Hán Việt hốn hợp .
Lại nói về chữ Nôm, một thứ chữ đọc theo âm Việt, nhưng lại được cấu trúc bằng các yếu tố chữ Hán, trong đó có rất nhiều chữ Hán nguyên mà văn Nôm chỉ tận dụng âm đọc Hán Việt của nó hoặc đọc trại đi theo âm Việt, mặc dầu mã chữ vẫn là chữ Hán. Ví dụ các chữ binh, mã, xuân, thu, cách ( xa cách ) … đọc nguyên âm, nguyên nghĩa, nhưng nghênh ( đón ) thì đọc trại thành “ nghiêng ”, chữ “ đội ” nghĩa là đội hình thì đọc trại thành chữ “ đòi. ” Có nhiều trường hợp dùng chữ Hán nhưng đọc theo nghĩa Việt, không dính dáng gì nguyên nghĩa chữ Hán. Ví dụ cai theo chữ Hán là ngôn + hợi, Tàu hiểu là nên, cần, còn chữ Nôm thì chỉ chức Cai. Chữ “ lại ”, có nghĩa là bọn nha lại, trong văn Nôm thì dùng chỉ trợ từ, như lại còn, lại đi. Tỉ lệ loại này trong chữ Nôm rất cao. Như thế ta cũng hoàn toàn có thể nói chữ Nôm là một văn tự Hán Việt hỗn hợp. Nó không hề độc lập với chữ Hán .
Sự sống sót song song của văn Hán và văn Nôm trong một nền văn học dân tộc bản địa thì hai thứ chữ ấy không hề chỉ sống sót bên nhau mà luôn xâm nhập vào nhau, phối hợp nhau để tạo nên phong cách Hán Việt hỗn hợp. Nghiên cứu văn học trung đại Nước Ta mà chỉ biết dòng thơ văn chữ Hán với dòng thơ văn chữ Nôm, mà không quan tâm tới sự pha xen, hỗn hợp của chúng như một phong cách thời đại sẽ là một thiếu sót. Sự hốn hợp khởi đầu từ trong văn tự, rồi lan sang thể loại đồng thời biểu lộ trong lối văn Hán Việt bất phân. Cần quan tâm văn học trung đại Nước Ta không chỉ là “ văn sử bất phân ”, mà còn là “ Hán Việt bất phân ” nữa .
Biểu hiện hỗn hợp thứ nhất là thơ tiếng Việt làm bằng các thể thơ, niêm, luật theo lối Hán. Thơ quốc âm trong Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các bầy tôi, thơ quốc âm Nguyễn Trãi, thơ luật của Bà huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương … Đó là thơ Việt, nhưng theo lối Tàu, không phải thuần Việt, vì vậy cũng thuộc loại thơ Hán Việt hỗn hợp. Toàn bộ thơ Nôm Đường luật Viêt Nam đủ các thể nhỏ hơn như tứ tuyệt, từ khúc, cận thể, cổ thể, cho đến nay đều là phong cách hỗn hợp
Cùng loại này còn có văn phú Nôm, lời Việt mà quy cách là của Hán, do đó cũng là Hán Việt hỗn hợp. Những bài Ngã Ba Hạc phú, Phụng thành xuân sắc phú tiếng Việt rất sinh động, nhưng quy cách, văn pháp theo Tàu. Nó cũng là Hán Việt hỗn hợp thể. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu cũng thế .
Biểu hiện thứ hai là những bài văn chữ Hán, nhưng làm theo thể cách Việt, như Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận, thơ bằng chữ Hán nhưng làm theo thể tuy nhiên thất lục bát, dài 136 câu. Đây là bài thơ làm khi bị tù oan, đêm thu nhớ nhà, nhớ quê, nhớ vợ. Chữ Hán ở đây đã phải phục tùng luật thơ tuy nhiên thất lục bát của người Việt. Các bài thơ chữ Hán khác viết theo thể lục bát cũng có tình hình tương tự như là vừa Hán vừa Việt. Loại này chính là Hán Việt hỗn hợp thể, là văn học Nước Ta, không phải văn học chữ Hán .
Biểu hiện thư ba là chêm. chữ Hán vào các văn bản Nôm như thể ca trù, khi nào cũng có một lien thơ chữ Hán thuần tuý. Ví dụ bài hát nói Chí Nam nhi của Nguyễn Công Trứ, cả bài làm bằng tiếng Việt, nhưng ở gĩưa chen một câu Hán văn : Nhân sịnh tự cổ thuỳ vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Hoặc như bài hát nói Hỏi gió của Tản Đà trong đó chen các câu chữ Hán : Khoái tai phong dã, rồi : Thử thị Đà giang phi Xích Bích, Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang. Nhà thơ hoàn toàn có thể làm toàn bằng tiếng Việt, nhưng cái thú chêm Hán văn khiên họ coi đó là quy tắc, thể thức của hát nói .
Biểu hiện thứ tư là văn chèo, văn tuồng nhiều đoạn viết theo thể văn biền ngẫu của Tàu. Ví dụ một đoạn văn giáo đầu của vở chèo Lưu Bình Dương Lễ do Bùi Kĩ dẫn ra : “ Thiều quang văn tĩnh, quân tử vô song, Nước nhà thuở quốc thái dân an, Khoa trường mở tuyển văn kén vũ. Tôi nhớ xưa tích cũ, Có hai chàng Dương Lễ Lưu Bình, Bạn đồng song đèn sách học tập, , Ba thu lẻ kể cùng chăn gối. ( Có vẻ tình đồng tính ? – TĐS ). Trời thương kẻ tình thâm nghĩa trọng, Cho chàng Lưu lại chiếm bảng vàng, Nghĩa bè bạn, đạo vợ chồng, Tình ý ấy kể chăng chẳng xiết … ” Chèo là thể kịch hát Nước Ta, mà văn thì biền ngẫu lối Tàu .
Văn tuồng cũng đặt theo biền ngẫu, nhiều lúc đặt chêm. thơ lục bát, tuy nhiên thất. Giọng hát có xướng, bộ, than, vãn, loạn, bắc, Nam, tẩu mã … Ví dụ đoạn khởi đầu vở tuồng Giang tả cầu hôn như sau : “ Âu vàng rực rực, Đuốc ngọc lầu luầ, Trên chin lần sách gót Đương Ngu, Dưới trăm họ vui mừng Hoài Cát. Gặp ngày khang cát, Diễn tích người xưa, Truyện Chu Du khéo đặt mưu mô, Dùng Quận chúa để làm mồi cá. Câu lấy Kinh châu thiên hạ, làm cho Lưu Bị cô thân, Phải Khổng Minh nhập quỷ xuất thần. Cho Triêu Tử cẩm nang diệu kế … ” Tất nhiên ở đây văn biền ngẫu đã được dùng rất phát minh sáng tạo, tạo ra lời nói uyển chuyển, bằng trắc chan chat. Nhưng vẫn là một lối hỗn hợp .

Biểu hiện thứ năm là Nôm Hán chen nhau. Đó là văn trong nhiều khúc ngâm, truyện Nôm. Nhiều thể đối và điển cố  Hán. Các văn bản Truyện Kiều, Cung oán ngâm…đều dày đặc chú thích, đó là vì nhiều chữ Hán và tích Hán. Thử xem một đoạn của Cung oán: “Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ, Đường thế đồ bóng rã tà huy, Phong trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ này. Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy, Kiếp phù sinh trông thấy mà đau, Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” Trong tám câu trên không có câu nào là không có chữ Hán. Những thệ thuỷ, cổ độ, thế đồ, tà huy, phong trần, sơn khê, tang thương, ảo hoá, phù sinh, cỏ khâu…Những chữ này không phải là từ tiếng Việt, và cũng chưa Việt hoá. Nhưng từ Việt từ Hán pha trộn nghe rất hay. Trong Truyện Kiều, mức độ chữ Hán thấp hơn, nhưng điển cố dày đặc. Thủ dở các trang đầu, thậm chí mấy dòng đầu của truyện ta bắt gặp các từ ngữ, điển cố Tàu: trăm năm, tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, bể dâu, caỏ thơm, phong tình có lục, sử xanh. Gia Tĩnh, viên ngoại, gia tư, nho gia, tố nga, mai cốt cách, tuyết tinh thần…Lục Vân Tiên, Dương  Từ Hà Mậu của nhà thơ Nam Bộ thơ văn cũng nhiều chữ Hán và điển cố như thế. Văn phong ấy là văn phong Hán Việt hỗn hợp. Chỉ có loại truyện Nôm bình dân như Trê cóc, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa…là mức độ hỗn hợp thấp.

Biểu hiện thứ bảy là văn Nôm nhan đề Hán. Đại Nam quốc sử duễn ca là một nhan đề Hán của một thiên lịch sử dân tộc bằng thơ Nôm, Thiên Nam ngữ lục là nha đề của một trường ca lịch sử dân tộc dân tộc bản địa khác có trước. Một thiên sử Nôm khác lị có tên Thiên Nam minh giám. Truyện Kiều được gọi là Đoạn trường tân thanh, người sau gọi lại thành Kim Vân Kiều truyện vẫn là nhan đề chữ Hán. Một truyện Nôm kể chuyện tình yêu người tiên và người trần gọi là Bich Câu kì ngộ. Chinh phụ ngâm thì gọi là Chinh phụ ngâm khúc hay Chinh phụ ngâm diễn ca. Cung oán ngâm khúc cũng là bằng chữ Hán. Tên một vở tuồng là Giang tả cầu hôn. Đây phần nhiều là một quy tắc phổ cập. Không khó gì để đăt nhan đề Việt, nhưng thị hiếu Hán khiến họ không buông được một thói quen .
Trên đây là trình bảy những bộc lộ cơ bản của phong cách Hán Việt hỗn hợp của văn học trung đại Nước Ta, phân biệt với văn học tân tiến. Chỉ trong văn học dân gian truyền miệng như ca dao, tục ngữ, câu đố, chuyện cười … là thuần Việt. Còn hàng loạt văn học viết đều mang phong cách trên, cho nên vì thế không thuần Việt. So với văn học Nôm nói trên, văn học chữ Hán, tức Hán Việt, gồm có hàng loạt sáng tác bằng chữ Hán và thể loại, phong cách Hán đúng theo nguyên mẫu của chúng bên Tàu .
Sự hỗn hợp Hán Việt nêu trên có quy luật của nó. Văn học trung đại Nước Ta cũng giống như các nền văn học trung đại khác trên quốc tế ở vào quy trình tiến độ sáng tác theo nguyên tắc tư từ ( rhetoric ). Đó là nguyên tắc văn học làm theo mẫu sẵn và câu sẵn, chữ sẵn, hình ảnh có sẵn. Mà mẫu sẵn và câu sẵn thì văn học chữ Hán đã hình thành hoàn thành xong từ thời cổ đại đến đời Đường Tống. Đó là cái kho vô tận để các tác giả làm theo. Nhưng nói như thế không phải là nói văn học trung đại không phát minh sáng tạo. Nó phát minh sáng tạo theo nguyên tắc dùng mới các từ ngữ săn, khuôn hình sẵn. Mở rộng ra là sử dụng các điển cố có sẵn. các tích truyện có sẵn để miêu tả ý mới. Cốt truyện Truyện Kiều là có sẵn, nhà văn không sửa lại bao nhiêu, nhưng cái ý nghĩa mà nó muốn miêu tả thì lại mới. Do đó nếu so sánh sự giống nhau Truyện Kiều với truyện của Thanh Tâm tài nhân là việc làm ít ý nghĩa, bởi đó chỉ là cái giống hình thức bề ngoài. Chinh phụ, cung oán là những môtiv có sẵn, nhưng tư tưởng của những áng văn Nước Ta là mới lạ, thâm thúy. Văn học trung đại không đặt ra nhu yếu phát minh sáng tạo thể loại mới, từ ngữ mới, hình ảnh mới như văn học văn minh, không yêu cấu biểu lộ sắc nét đậm cá tính, do đó đậm cá tính vẫn có nhưng mờ nhạt, không đều. Khó phân biệt thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là cho nên vì thế. Sự phát minh sáng tạo ra lục bát và tuy nhiên thất lục bát, hát nói đều là tăng trưởng, nâng cao, thể thức hoá từ các khuôn âm vốn đã có sẵn trong ca dao, dân ca tiếng Việt. Hát nói là sự tổng hợp, phối xen của các yếu tố đã có như lục bát, tuy nhiên thất, đối, câu thơ dài từ tám chữ trở lên. Và một khi đã hoàn thành xong thì nó không biến hóa nữa. Phong cách này chi phối cả chục thế kỉ văn học Việt cho dến thời cận đại. Nó cho thấy thời trung đại ta chưa khi nào có văn học viết thuần Việt. Chỉ đến khi chữ quốc ngữ Open và thông dụng, tác động ảnh hưởng phương Tây tràn vào thì phong cách ấy mới chấm hết để chuyển sang một phong cách mới, văn minh. Chỉ đến lúc này tất cả chúng ta mới có văn chương thuần Việt, đặc biệt quan trọng là trong văn xuôi. Từ Hán Việt trong văn xuôi lại là một yếu tố khác, yếu tố của ngôn từ hơn là yếu tố của văn. Nhiều người cứ tưởng rằng càng cổ xưa thì càng dân tộc bản địa, nhưng lịch sử dân tộc cho thấy chỉ đến thời tân tiến tính dân tộc bản địa của văn chương mới đạt dến hoàn thành xong với một phong cách mới. Đó là phong cách phát minh sáng tạo, đậm cá tính, chống lại mọi sự ràng buộc của các quy phạm ( canon ) và không ngừng đổi khác. Nhà văn lúc này phải tự tìm ra diễn biến của mình, hình thức của mình, ngôn từ của mình để biểu lộ tư trưởng một cách tự do. Quan sát thơ ca và tiểu thuyết Nước Ta thế kỉ XX thì sẽ thấy thơ ca, tiểu thuyết về quy cách, văn phong, kiểu thức, phong cách cá thể luôn luôn đổi khác, cái sau muốn thay cái trước, tạo ra một hoạt động không ngừng. Tất cả những biến hóa đó đều nhờ vào chữ quốc ngữ và văn học quốc ngữ. Giá thử không có quốc ngữ mà vẫn cứ Hán Nôm như các thế kỉ trước thì văn học Nước Ta sẽ phần đông dẫm chân tại chỗ. Chỉ cần xem sự lưỡng lự của Tản Đà thì thấy rõ. Ông là nhà thơ kĩ năng xuất chúng, nhưng không hề thoát khỏi cái truyền thống cuội nguồn Hán Nôm mà ông đã đào luyện phần nhiều suốt đời. Hiện tượng này giống như văn học Trung Quốc tân tiến. Nhu cầu thay đổi ngôn ngữ văn học đã Open từ giữa thế kỉ XIX, ông Hoàng Tuân Hiến đã nêu ra khẩu hiệu : “ Tay tôi viết miệng tôi ”, tức là muốn dung khẩu ngữ, nhưng nhu yếu ấy phải có một trào lưu xã hội to lớn thì mới hoá thành trong thực tiễn. Thời “ Ngũ Tứ ” ( ngày 4 tháng5 ) năm 1919 chính là trào lưu ấy, nó “ lật đổ cửa hàng họ Khổng ”, đạp nát mọi cũ kĩ, tiếp đón phương Tây, thiết kế xây dựng nền dân chủ và phát minh sáng tạo mới, nêu khẩu hiệu văn học bạch thoại. Nếu họ không quy đổi sang văn bạch thoại, từ bỏ di sản văn ngôn trong sáng tác thì họ không hề có văn học văn minh như ngày này. Văn học Trung Quốc tân tiến là văn bạch thoại .
Lịch sử là một sự chuyển vần tuy rối ren nhưng phần đông có quy luật. Một khi đã sang văn học tân tiến rồi thì người ta không hề quay về cái cũ nữa, mặc dầu cái cũ vẫn rất trác tuyệt trong phong cách của nó .
Thành Phố Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm năm nay .

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải …