Các Biến Chứng Của Gãy Xương – Bài Giảng ĐHYD TPHCM

Các Biến Chứng Của Gãy Xương – Bài Giảng ĐHYD TPHCM

PHẦN 2: BIẾN CHỨNG NHIỄM TRÙNG – RL DINH DƯỠNG

Contents

  • PHẦN 1: BIẾN CHỨNG THẦN KINH – MẠCH MÁU
  • PHẦN 2 : BIẾN CHỨNG NHIỄM TRÙNG – RL DINH DƯỠNG

6. BIẾN CHỨNG NHIỄM TRÙNG CỦA GÃY XƯƠNG

6.1. Tình huống nhiễm trùng xương gãy

Tuyệt đại đa số những nhiễm trùng xương gãy do hai trường hợp :
– Gãy xương hở
– Gãy xương kín được phẫu thuật ( tích hợp xương v.v. )
Gãy xương kín bị nhiễm trùng cực kỳ hiếm. Do đó, đặc thù này là “ vế ” thứ nhất của định nghĩa nhiễm trùng ngoại khoa là nhiễm trùng của những vết thương .
Ngoài nhiễm trùng do vi trùng thường còn phải chú ý quan tâm đến 2 loại nhiễm trùng đặc hiệu là uốn ván và hoại thư sinh hơi .

6.2. Các cơ chế của nhiễm trùng ngoại khoa

6.2.1. Muốn một vết thương bị nhiễm trùng rõ rệt phải đạt hai điều kiện

– Sự hiện hữu của vi trùng vào trong khung hình
– Có môi trường tự nhiên thích hợp để vi trùng sinh sôi nẩy nở tới mức có năng lực gây nhiễm trùng
Gãy xương hở hay gãy xương kín đuợc phẫu thuật mở ra hoàn toàn có thể có vừa đủ hai điều kiện kèm theo :
+ Vi khuẩn xâm nhập qua vết thương vào khung hình ( nhiễm khuẩn )
+ Các mô mềm hoại tử và máu tụ là hai môi trường tự nhiên lý tưởng gíup vi trùng tăng trưởng. Do đó mọi gãy xương hở hoặc phẫu thuật vào xương gãy đều có rủi ro tiềm ẩn bị rình rập đe dọa nhiễm trùng .

6.2.2. Hiệu ứng di vật trong cơ thể

Gãy xương hở hoàn toàn có thể có cả những dị vật ( đất đá, mảnh quần áo, v.v.. ) xâm nhập cùng với vi trùng vào trong vết thương. Các mảnh xương rời, những mô chết cũng là những dị vật tại chỗ .
Tất cả những vật tư phối hợp xương cố ý đưa vào khung hình ( nẹp, ốc, đinh ) kể cả ống dẫn lưu đều góp thêm phần làm cho dị vật trong khung hình nhiều mẫu mã thêm .
Cơ thể đương nhiên phản ứng với những dị vật đó : nhờ những điện tích tạo ra ở những kẽ nứt dị vật tạo ra một lớp những sợi proteine ( fibrine fibronectine ) bọc mặt phẳng dị vật. Lớp vỏ bọc này có công dụng cố định và thắt chặt những vi trùng lại trên mặt phẳng dị vật .. Các vi trùng được cố định và thắt chặt trên mặt phẳng những dị vật tự do tăng trưởng và tự tạo ra một vỏ bọc bằng chất glycoproteine. Các nhà nghiên cứu gọi vỏ bọc đó bằng tên glycocalyx ( có nghĩa là vỏ bọc đường ), vỏ bọc này bảo vệ những quần thể vi trùng trên mặt phẳng chống lại mọi chính sách miễn dịch khung hình, bạch cầu, những thuốc sát trùng, những kháng sinh .
Nói tóm lại nhờ hiệu ứng dị vật trong khung hình, những vi trùng bám trên mặt phẳng những dị vật không bị tàn phá và thuận tiện gây nhiễm trùng. Nếu ở một vết thương thông thường phải cần 109 tụ cầu trùng / ml mới gây được nhiễm trùng, thì ở vết thương có dị vật chỉ cần 102 – 103 vi trùng / ml đủ gây nhiễm trùng. Chỉ khi nào vô hiệu dị vật ( kể cả những nẹp, đinh, ốc ) ra khỏi vết thương mới kỳ vọng làm khỏi nhiễm trùng .
Khi lấy dịch từ vết thương làm xét nghiệm vi sinh sẽ chỉ thấy những vi trùng long dong ( và vắng bóng những vi trùng bám trên mặt phẳng dị vật ) .
Do đó kháng sinh đồ cũng không phản ảnh khá đầy đủ những loại vi trùng ở trong vết thương .

Có thể tóm tắt hiệu ứng dị vật như sau:

– Vết thương có dị vật ( kể cả vật tư tích hợp xương ) dễ bị nhiễm trùng .
– Các quần thể vi trùng nằm trong vỏ glycocalyx trên mặt phẳng dị vật không bị hủy hoại. Chỉ khi nào lấy bỏ hết dị vật cùng với cắt lọc vết thương mới hết nhiễm trùng .
– Không phát hiện được những vi trùng nói trên trong dịch mủ lấy ở vết thương .

6.2.3. Kết luận

Hiện nay chưa có phương tiện đi lại tàn phá hết mọi vi trùng. Biện pháp chắc như đinh chống nhiễm trùng vết thương là ngoại khoa : cắt bỏ mọi môi trường tự nhiên nuôi dưỡng vi trùng và mọi dị vật .

Như vậy định nghĩa nhiễm trùng ngoại khoa là nhiễm trùng đại đa số do vết thương và phải dùng phương pháp ngoại khoa mới chữa khỏi được.

6.2.4 Kháng sinh là hỗ trợ cần thiết

Nếu trong thời kỳ chưa có kháng sinh, cắt lọc vết thương chỉ khu trú trong vòng 6 g – 8 g đầu sau khi bị thương, thời nay nhờ dùng kháng sinh tương hỗ, những phẫu thuật viên hoàn toàn có thể cắt lọc vết thương trong bất kể thời gian nào, không sợ làm nhiễm trùng lan rộng ra toàn khung hình. Song kháng sinh chỉ thật sự tương hỗ có hiệu suất cao nếu ta dùng thật sớm : lý tưởng nhất là dùng kháng sinh ngay khi bị thương tích hoặc dùng kháng sinh khi mới tới bệnh viện ; chậm nhất là dùng kháng sinh trước khi cắt lọc. Kháng sinh dùng dự trữ trước những phẫu thuật tích hợp xương cũng phải cho trước khi mổ. Đường dùng có hiệu suất cao nhất là truyền tĩnh mạch .

7. HỘI CHỨNG RỐI LOẠN DINH DƯỠNG

7.1. Định nghĩa

Đây là biến chứng rối loạn lưu thông máu do chính sách rối loạn vận mạch thần kinh, xảy ra sau một gãy xương ( chấn thương ) hay sau một viêm tấy .

7.2. Hai yếu tố

– Đau đớn .
– Bất động tuyệt đối lê dài thường để gây ra rối loạn dinh dưỡng .
Nguyên nhân chấn thương nhiều lúc khá nhẹ, nhưng điều quan trọng đau đớn liên tục xảy ra, nhắc đi nhắc lại nhiều lần ( như nắn xương gãy nhiều lần không vô cảm vừa đủ ; băng bó quá chặt gây đau đớn liên miên ) đủ gây ra biến chứng .

7.3. Thời điểm xuất hiện

Xuất hiện muộn sau một khoảng chừng trống yên lặng sau chấn thương, không giống những biến chứng gãy xương khác Open tức thì ngay sau chấn thương .

7.4. Vị trí

Vùng rối loạn dinh dưỡng có khi ở xa nơi gãy xương, thường ở bàn ngón tay ( so với chấn thương ở chi trên ), ở cổ và bàn chân ( so với chấn thương chi dưới ). Ở chi trên có khi rối loạn cũng thấy ở bàn ngón tay và ở vùng vai ( bỏ lỡ vùng khuỷu ). Các tác giả Pháp gọi là hội chứng “ vai – bàn tay ” là như vậy .

7.5. Chẩn đoán

Dựa đa phần vào những tín hiệu lâm sàng và gồm có :
– Đau nhức : mức độ biến hóa khác nhau : tê tê kiến bò không dễ chịu, nhiều lúc như rát bỏng hay cảm xúc điện giật : Trên nền đau liên tục đôi lúc có những đợt đau dữ đội buốt như bị phỏng ( do đó có hội chứng buốt phỏng ). Đau tăng biến hóa theo thời tiết, khi xúc cảm, khi hoạt động dữ thế chủ động hay thụ động những khớp, đặc biệt quan trọng ở những ngón tay ( hay ở những ngón chân ) làm đau tăng .
– Phù nề vùng rối loạn dinh dưỡng lúc khởi đầu. Khi tiến triển muộn sau này lại là teo cơ, kèm theo xơ dính ở những khớp .
– Mất cơ năng khởi đầu những khớp vì hoạt động đau, sau này cứng những khớp do hình thành xơ hóa ở khớp .
– Các tín hiệu rối loạn vận mạch :
Có những biểu lộ khác nhau như :

  • Màu da có khi đỏ sẫm, khi lại nhợt nhạt hoặc tím tái.
  • Nhiệt độ da khi nóng hơn, khi lạnh hơn so với bên đối diện.
  • Ra mồ hôi nhiều hơn bình thường ở thời kỳ đầu, sau này da lại khô ráo, ít ra mồ hôi.
  • Xuất hiện các dấu hiệu rối loạn dinh dưỡng rõ rệt ở giai đoạn muộn hoặc các trường hợp biến chứng nặng: teo cơ, các ngón tay thon nhổ búp măng, mất các nếp da, da nhẵn láng và mỏng; móng tay sù sì khô; có vết nứt dễ gãy; hệ thống lông phát triển mạnh ban đầu, về sau là rụng lông.

– Hình ảnh X-quang nổi bật, Open khá sớm : loãng xương lốm đốm không đều. Hình ảnh những bờ những xương lại rõ nét, như tô bằng bút .

7.6. Điều trị

Điều trị sớm tác dụng chắc như đinh :
– Thuốc chống viêm ( Indocid, … )
– Bất động khi hoạt động đau

– Thể dục liệu pháp sớm và nhẹ nhàng không gây đau đớn.

7.7. Dự phòng

Tránh mọi giải pháp gây đau đớn cũng như cho tập hoạt động dữ thế chủ động sớm không gây đau đớn .

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • 1. L. BOEHLER. Kỹ thuật điều trị gãy xương. Tập I (Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quang Long. NXB Y Học Hà Nội, 1976)
  • 2. A.H. CRENSHAW. Campbel’s Operative Orthopaedics, Vol 2. The C. V. Mosby.Co. St.Louis-London-Sydney, 1992
  • 3. B.Mc KIBBIN, The biolog of fracture healing in long bones. J.Bone and Joint Surgery, 1978, 60-B: 150- 162.
  • 4. NGUYỄN QUANG LONG, Các kiến thức mới và tiến bộ liên quan đến gãy xương. Tổng quan và chuyên khảo Y Dược số 22, 1986. Viện Thông Tin Thư Viện Y Học Trung Ương, Hà Nội.
  • 5. NGUYỄN QUANG LONG, Triệu chứng học cơ quan vận động. NXB Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 1978
  • 6. NGUYỄN QUANG LONG VÀ CS, Bệnh Học Ngoại Khoa – Tập V. Trường Đại Học Y Dược TP.Hồ Chí Minh, 1989
  • 7. M.MUELLER ET AL, Manual of Internal Fixation. 3rd Edition. Springer-Verlag-Berlin-Heildenberg-Newyork,1991
  • 8. DER ORTHOPAEDE, Số báo chuyên đề về hội chứng tắc mạch do mỡ. 1995,24, số 2.
  • 9. C. CRETTLEK – H.TSCHERNE, Stress und Frakturbeilung – Orthopaed, 1995, 24, SỐ 5: 416-428
  • 10. J.BARREETAL. Embolies et chirurgie fémorale intra- médullaire. Rev. Chir. Orthopédique, 1997,83,1:9-21