Sắc Đẹp Khuynh Thành (Trần Thị) – Tiểu Thuyết Lịch Sử – Tiểu thuyết của Kiều Thanh Tùng – GIẢM 22%
Về giao thông: Kiều Thanh Tùng cho rằng người Việt ngày ấy chủ yếu dùng đường thủy. Quân đội Việt trong Sắc đẹp khuynh thành – Trần thị được mô tả là “thủy quân lục chiến”, cơ động bằng thuyền rồi đổ bộ chiến đấu. Người và ngựa đều xuống thuyền. Kiều Thanh Tùng còn tả cảnh võ sĩ cưỡi trâu chiến đấu, cũng độc đáo vì con trâu là biểu tượng của nước Việt ta. Lại có cảnh hai tướng cưỡi thuyền đơn đấu võ trên mặt sông theo thể thức một tay lái thuyền một tay đánh kiếm, cũng lạ, có chất phương Nam, không thấy trong sách Tây sách Tàu.
Dùng giao thông thủy cũng hợp với quan điểm của nhiều sử gia ngày nay: Nước ta ở phương Nam, trồng lúa nước, sông ngòi chằng chịt nên đường thủy là nhanh và rẻ nhất. Có lẽ thế, cách đây 25-30 năm, ở Hà Nội, vùng quận Hai Bà hay vùng Láng Hạ, Định Công… vẫn thấy hồ ao kênh rạch chi chít.
Bạn đang đọc: Sắc Đẹp Khuynh Thành (Trần Thị) – Tiểu Thuyết Lịch Sử – Tiểu thuyết của Kiều Thanh Tùng – GIẢM 22%
Về trang phục: Kiều Thanh Tùng lấy tranh Đông Hồ làm cơ sở. Anh nói: Thứ nhất, Việt phải khác Hán, dĩ nhiên. Ngày xưa chưa có truyền hình vệ tinh hay Internet nên bản sắc vùng miền rất đậm. Giữa hai tỉnh, thậm chí hai huyện ăn mặc, giọng nói đã khác nhau, huống chi tận nước Việt với nước Trung Quốc. Thứ hai, nước ta ở phương Nam nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều, ăn mặc lòe xòe như người Hán vừa nóng bức khổ sở, vừa tốn vải vô ích: “ngày xưa chưa có sợi tổng hợp, chưa có máy dệt nên vải rất đắt”. Mặc đồ ngắn mỏng vừa đỡ tốn kém, dễ giặt dễ phơi, vừa khoe được vẻ đẹp cơ thể. Kiều Thanh Tùng cho rằng bộ áo giáp của người Việt xưa có lẽ hơi giống với bộ giáp của người La Mã khi họ đi đánh phương Nam: Một phần đùi và cánh tay để trần cho đỡ nóng và dễ cử động, trông lại rất đẹp mắt.
Kiều Thanh Tùng là một người điều tra và nghiên cứu tự do, anh nói anh nghiên cứu và điều tra không hướng theo chuyên ngành, bằng cấp hay thương hiệu nào mà nghiên cứu và điều tra theo sở trường thích nghi. Sở thích của Tùng trải rộng từ phương Đông đến phương Tây, từ cổ đại đến văn minh nên anh đã nghiên cứu và điều tra nhiều thứ, từ đạo Phật đến Thiên Chúa giáo, từ thiền học đến võ thuật, từ tâm lý học đến tình dục học … nhưng tựu trung, anh thích điều tra và nghiên cứu về con người : “ con người làm ra toàn bộ, xuất hiện trong tổng thể : lịch sử dân tộc, chính trị, quân sự chiến lược, kỹ thuật, nghệ thuật và thẩm mỹ, tình yêu … ”.
Về cách xưng hô, ngôn ngữ: Kiều Thanh Tùng lấy ca dao làm cơ sở. Khác với nhiều tiểu thuyết lịch sử khác, trong Sắc đẹp khuynh thành – Trần thị, nhân vật thường xưng hô với nhau bằng những từ thuần Việt: mày tao, anh tôi… Thỉnh thoảng họ cũng xưng hô theo kiểu Hán: ta ngươi, thần trẫm… Nam nữ yêu nhau thì xưng là “anh em”. Tùng dẫn chứng ca dao cổ:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Để quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin…”
Tùng nói theo sử chép thì thời Lý Thái Tông, những quan không gọi vua rằng “ Thưa chúa thượng ! ” mà gọi rằng “ Thưa triều đình ! ” ( vua thì gọi là triều đình, còn triều đình thì họ gọi là gì ? Sẽ lại phải có từ khác để phân biệt ). Thời Lý Cao Tông người ta lại gọi vua là “ Thưa Phật ! ”. Vua Lý Thánh Tông thì không tự xưng là “ trẫm ” mà xưng là “ vạn thặng ” … Theo Kiều Thanh Tùng, không nên quá câu nệ về sự đúng mực của xưng hô, câu chữ thời xưa vì sẽ gây căng thẳng mệt mỏi cho người xem thời nay.
Kiều Thanh Tùng nói ngôn ngữ hay áo quần, hay kiến trúc thay đổi theo thời gian. Nó như những thứ mốt, bao giờ người ta thấy cũ, không gây được cảm hứng nữa thì người ta thay đổi nó. Quần áo thì chán kiểu rộng thụng lại đổi sang kiểu bó chẽn, chán kiểu dài thướt tha lại đổi sang kiểu ngắn cũn cỡn… mỗi kiểu mỗi vẻ đều đẹp cả, miễn là nó xuất hiện đúng lúc.
Về câu chữ: người ta thường thích đổi mới ý nghĩa của từ ngữ, nhất là lớp thanh thiếu niên (chúng ta có thể thấy sự đổi mới trong ngôn ngữ hàng ngày của thanh thiếu niên hiện nay). Từ ngữ thường đổi mới trong dân gian trước, đến khi giới trí thức cũng ưa dùng thì nó đi vào sách vở. Từ “chính phủ” xưa dùng để chỉ nhà của quan tể tướng. Nhà các quan đều gọi là “phủ”, nhà quan tể tướng to hơn, thường hội họp đông người nên gọi là “chính phủ”. Ngày nay chữ “chính phủ” đã mang ý nghĩa khác. Từ “bác sĩ” thời Lý dùng để chỉ những nhà Nho uyên bác, nay lại dùng để chỉ các thày thuốc. Rất nhiều từ ngữ khác cũng đã biến đổi như thế. Kiều Thanh Tùng nói giả sử có tư liệu để xác định được chính xác ngôn ngữ của ngày xưa thì cũng không nên đưa tất cả vào tiểu thuyết hay phim ngày nay vì sẽ gây hiểu lầm. Ngày nay nếu chúng ta làm bộ phim trong đó nhân vật nào đó gọi Chu Văn An rằng “Thưa bác sĩ…” thì hẳn nhiều người xem sẽ tưởng ông Chu Văn An là thầy thuốc!
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép năm Bính Ngọ ( 1006 ) vua Lê Ngọa Triều ban lệnh “ sửa đổi quan chế và triều phục của những quan … theo đúng như người Tống ”, Kiều Thanh Tùng cho rằng nên hiểu câu này theo nghĩa là giống về phân cấp, về thứ bậc thôi : thí dụ chia những quan chức thành chín bậc ( từ nhất phẩm đến cửu phẩm ), chia cơ quan chính phủ thành sáu bộ … mỗi phẩm cấp, mỗi ban ngành một màu áo, một kiểu đai thắt lưng khác nhau chứ không phải là mỗi ông quan Việt mặc áo giống một ông quan Tống. Ai lại bắt chước như trẻ con thế ! Vả lại khí hậu ta cũng không hợp với quần áo Tống. Mà ông vua Ngọa Triều này thường làm nhiều điều bậy bạ, lệnh của ông ta chắc chỉ có hiệu lực hiện hành vài năm thôi vì Ngọa Triều chỉ làm vua có bốn năm. Áo quần của vua quan có mục tiêu là tạo sự thán phục của dân, của cấp dưới. Nếu dân hâm mộ kiểu Hán thì vua quan sẽ mặc theo kiểu Hán. Nếu dân chê là “ bắt chước Tàu ” thì vua quan sẽ đổi kiểu khác. Cung điện cũng vậy, không nhất thiết phải giống Trung Quốc vì người xưa hoàn toàn có thể học theo kiểu Chiêm Thành, kiểu Xiêm hay Tây vực ( Ấn Độ, Tây Á ), hoặc tạo kiểu riêng của mình.
Về thành trì, cung điện: Kiều Thanh Tùng cho rằng cung điện của Đại Việt nhỏ nhắn hơn nhưng lộng lẫy hơn cung điện Trung Quốc: “Sử chép cung điện của Lê Đại Hành lấy bạc đúc thành những viên ngói, lấy vàng dát thành tấm ốp cho các cây cột, còn sừng tê giác, ngà voi lớn, kỳ nam, ngọc trai, đồi mồi thì khỏi nói, Đại Việt là xứ sở của những sản vật ấy. Hổ báo, hươu nai, voi gấu, chim trĩ, chim công, chim ưng… thì nhiều lắm. Người ta dùng những sản vật ấy hoặc dùng vàng ngọc đúc tượng chim ưng, chim công, hổ gấu trang trí cho các cung điện vừa sang đẹp, vừa có bản sắc Việt. Không nên đua tranh với các nước về độ to hay độ cao của thành trì, cung điện”.
Đàn Xã Tắc: Sắc đẹp khuynh thành – Trần thị miêu tả Đàn Xã Tắc là nơi thờ trời đất và phối thờ cả mẫu Âu Cơ nữa. Thời Âu Cơ phụ nữ hay cởi trần nên khi làm lễ cầu mưa ở Đàn Xã Tắc có các cô gái cởi trần nhảy múa.
Sự nhảy múa: Trong tiểu thuyết Sắc đẹp khuynh thành – Trần thị, người Việt thường nhảy múa trong các buổi lễ hội, tiệc tùng. Kiều Thanh Tùng nói sử chép “vua Trần thường cầm tay các quan múa hát” trong các tiệc rượu.
Về tôn giáo: Đây là điều đáng nói nhất vì nó ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực khác. Trong Sắc đẹp khuynh thành – Trần thị, Phật giáo khi ấy là quốc đạo. Kiều Thanh Tùng nói, sử chép rằng số phận các triều đại Đinh, Lý, Trần đã được các nhà sư tiên liệu trước. Ngày ấy các nhà sư rất giỏi. Đức Thái tổ Lý Công Uẩn là học trò của sư Vạn Hạnh. Vạn Hạnh đánh giá tình trạng nước Việt khi ấy, cho rằng Lý Công Uẩn có thể và cần phải lên ngôi vua thay họ Lê, từ đó Lý Công Uẩn có ý định làm vua. Các vua Lý, vua Trần xây không biết bao nhiêu chùa, đúc không biết bao nhiêu chuông và tượng Phật. Sử gia Lê Văn Hưu nói các vua Lý “xây tháp cao ngất trời, điện thờ Phật, chùa cột đá… lộng lẫy hơn cả cung vua”, có khi “quá nửa dân chúng đi làm sư sãi”, hòa thượng quốc sư thì cùng xử kiện với quan tể tướng.
Kiều Thanh Tùng nói thời Lý tội giết người có khi chỉ bị đánh 100 hoặc 80 trượng, tội định giết vua của tiến sỹ Nho học Lê Văn Thịnh không bị giết ba họ như Nguyễn Trãi thời Lê mà bản thân ông Thịnh cũng không bị giết, vì vua Lý theo Phật nên có sự từ bi, xã hội theo Phật nên khi ấy cũng ít tội ác. Lê Văn Hưu và Ngô Sỹ Liên cũng than vãn “ hoàn toàn có thể nói trong triều đình như thể không có người ( người Nho học ) vậy ”, vì những vua Việt làm khác với Nho giáo, khác với người Trung Quốc nhiều quá : ví dụ điển hình tranh chấp ruộng đất mà đánh chết người thì phạt đánh 80 trượng ( gậy ), hoặc vua Lý Thái Tông lập bảy bà hoàng hậu ! Điều này Trung Quốc không có mà thế giới hình như cũng không có. Vua Lý Huệ Tông, vua Trần Thái Tông muốn đi tu vì nhiều nguyên do trong đó có nguyên do yêu Phật. Khi vua Trần Nhân Tông bỏ ngôi lên Yên Tử tu, hai trăm mỹ nữ của ông đã tự sát ở suối Giải Oan giờ đây, nhưng ông vẫn theo Phật. Bên Trung Quốc làm gì có những chuyện như vậy ? Nho giáo ngày ấy chỉ thấp thoáng trong xã hội Việt. Lê Văn Hưu và Ngô Sỹ Liên theo đạo Nho nên trách móc những vua Việt nhưng tôi lại cho rằng những cái khác đó là cái chất riêng của nước Việt ta. Trong toàn cảnh ấy đương nhiên sự ăn nói, áo quần, nhà cửa … phải mang nhiều tính Phật giáo chứ không giống bên Trung Quốc hay thời Lê – Nguyễn bên ta. Đại Việt khi ấy rất có truyền thống, đẹp và vui tươi, lại phóng khoáng nữa. ( Nguồn : Người TP.HN )Ngọc Điệp ( Evăn )
Source: https://thoitrangredep.vn
Category: Phong Cách